Trang chủ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP DỆT MAY HÀ NỘI
KHOA TIN HỌC - NGOẠI NGỮ

ĐỘNG LỰC HỌC TRONG DẠY VÀ HỌC NGOẠI NGỮ

Ngày đăng: 03:01 - 09/08/2023 Lượt xem: 1.577
Phạm Kim Anh 
Khoa THNN, trường Đại học Công nghiệp Dệt may Hà Nội
Email: anhpk@hict.edu.vn
Giới thiệu
Trong lý thuyết tâm lý học, động lực (động cơ) được định nghĩa là một yếu tố thúc đẩy hành vi của con người. Và trong giảng dạy tiếng Anh, động lực được coi là chìa khóa quyết định thành công, thất bại trong học tập và sự hứng thú học tiếng Anh của học sinh, sinh viên. Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng nhất cho thấy học sinh học ngoại ngữ tốt như thế nào. Ngoài ra, sự thành công của việc học ngoại ngữ nhờ có động lực học đã được cả giáo viên và các nhà nghiên cứu nhận thức rất rõ ràng. Động lực từ lâu đã và sẽ luôn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả học ngôn ngữ thứ hai và đóng vai trò quan trọng trong quá trình này.

Động lực được định nghĩa là "những lựa chọn mà mọi người đưa ra về những trải nghiệm hoặc mục tiêu mà họ sẽ tiếp cận hoặc tránh và mức độ nỗ lực mà họ sẽ thực hiện" (Keller, 1983). Nhiều nghiên cứu cho rằng động lực có mối quan hệ mật thiết với thành tích học ngôn ngữ. Trong nghiên cứu của Littlewood (1984:53), “động cơ có trong việc học ngôn ngữ thứ hai cũng như trong các lĩnh vực học tập khác của con người, động cơ là yếu tố quan trọng quyết định người học có bắt tay vào công việc hay không, họ dành bao nhiêu năng lượng với nó, và duy trì được bao lâu”. Ngoài ra, khi xem xét vấn đề này, Oxford và Shearin (1996:121-2) khẳng định rằng “động cơ rất quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến tần suất học sinh sử dụng các chiến lược học ngôn ngữ thứ hai, mức độ tương tác của học sinh với người bản ngữ, họ nhận được bao nhiêu thông tin đầu vào bằng ngôn ngữ đang học (ngôn ngữ đích), họ làm tốt như thế nào trong các bài kiểm tra thành tích liên quan đến chương trình giảng dạy, trình độ thông thạo của họ đạt đến mức nào, và họ duy trì các kỹ năng ngôn ngữ thứ hai trong bao lâu sau khi việc học đã kết thúc. Do đó, động lực rất quan trọng đối với việc học ngôn ngữ thứ hai và điều cần thiết là phải hiểu động lực của học sinh là gì”.

Cụ thể, đối với việc học ngôn ngữ, động cơ có thể được coi là định hướng của người học nhằm đáp ứng mục tiêu học ngôn ngữ thứ hai. Vì vậy, động cơ đã được một số công trình nghiên cứu tập trung và tìm hiểu nhằm tìm hiểu bản chất thực sự, từ đó rút ra ý nghĩa đối với người dạy và người học trong việc học ngoại ngữ. Nếu người học không có đủ động lực thì khó có thể khám phá, trau dồi năng lực, năng khiếu bẩm sinh của mình và theo đó, mục tiêu lâu dài có thể không đạt được. Mặt khác, với động cơ tốt, những khiếm khuyết đáng kể về năng khiếu ngôn ngữ hoặc điều kiện học tập của sinh viên có thể được bù đắp bởi vì người học sẽ tự tìm cho mình một lý do thúc đẩy và thu hút họ hành động để nâng cao hiệu quả học tập của mình.

Đánh giá về hai bài báo đã xuất bản:
“Motivating English Students in Class” (Tạo động lực cho sinh viên học tiếng Anh) và “Motivation and Language Learning” (Động lực và việc học ngôn ngữ)

Trong hai bài viết “Tạo động lực cho sinh viên học tiếng Anh” của YU Run-Mei trong Dạy học tiếng Anh Trung-Mỹ tập 4 số 4 tháng 4 năm 2007 và “Động lực và việc học ngôn ngữ” của Bo Wang trong tạo chí Khoa học xã hội châu Á tập 5 số 1 tháng 1 năm 2009, nhóm tác giả tập trung vào vai trò của động cơ, các yếu tố chính của vấn đề này và rút ra một số cách tạo động lực cho học sinh trong các lớp học tiếng Anh ở Trung Quốc.

Mở đầu bài viết, hai tác giả đã đề cập đến tầm quan trọng của động cơ học ngôn ngữ, đặc biệt là tiếng Anh. Họ cũng nhấn mạnh vai trò của giáo viên ngôn ngữ trong việc tạo ra và khám phá động lực của học sinh. Trong nghiên cứu của Yu Run-Mei (2007), động cơ dưới góc nhìn của các nhà tâm lý học đã được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau giúp giáo viên tiếng Anh nhận thức được vai trò của động cơ trong giờ học. Để định nghĩa khái niệm “động cơ”, ông trích dẫn từ Stern (1983: 385) rằng “...điều đó bắt đầu và duy trì quá trình học tập, hoặc điều đó dẫn đến việc tránh hoặc từ chối việc học; các lý do đã nêu và các mục tiêu được nhận thức cũng như các động lực và nhu cầu trong tiềm thức thúc đẩy và duy trì nỗ lực học tập hoặc dẫn đến sự ức chế hoặc từ chối nó”. Bằng cách đề cập đến quan điểm của Garner (1985:50), vấn đề này liên quan đến “bốn khía cạnh, mục tiêu, hành vi nỗ lực, mong muốn đạt được mục tiêu và thái độ tích cực đối với hoạt động này”. Trong giảng dạy ngôn ngữ, ông chỉ ra từ quan điểm của hai nhà nghiên cứu rằng động lực có thể dẫn đến một số gợi ý đối với giáo viên trong việc hỗ trợ học sinh nỗ lực đạt được mục tiêu học tập.

So với bài viết của Yu Run-Mei (2007), trong phần giới thiệu nghiên cứu của Bo Wang (2009) đã giới thiệu tổng quan ngắn gọn về các nghiên cứu trước đây về động cơ làm việc. Ông không định nghĩa chính xác động lực là gì hay trích dẫn bất kỳ ý tưởng nào từ những nghiên cứu đó nhưng ông chỉ ra tầm quan trọng của nó trong việc học ngôn ngữ được thể hiện trong hoạt động và thành tích của học sinh. Bo Wang (2009) đã trích dẫn một ý kiến của Gardner (1985) rằng “động cơ xây dựng là yếu tố chính ảnh hưởng đến việc học tiếng Anh của sinh viên. Ông cho rằng động cơ học ngôn ngữ không chỉ bao gồm định hướng mục tiêu mà là sự kết hợp giữa nỗ lực, mong muốn đạt được mục tiêu học ngôn ngữ và thái độ tích cực đối với việc học ngôn ngữ”.

Hai tác giả có chung quan điểm về vấn đề này trong việc học ngôn ngữ thứ hai trong bối cảnh giáo dục Trung Quốc.

Trong phần thứ hai của cả hai tác phẩm, hai tác giả đều có những ý kiến chung về phân loại động lực. Cả hai đều đồng ý rằng có hai loại động lực chính. Trước khi trình bày ý tưởng của Harmer (1983), Bo Wang đã giới thiệu quan điểm của Brown về một loại động cơ – động cơ nhiệm vụ là động lực để thực hiện các nhiệm vụ học tập cụ thể. Ông thể hiện sự đồng ý với nghiên cứu của Harmer (1983) rằng động lực bao gồm động lực bên ngoài (động lực công cụ và tích hợp) và động lực bên trong. Theo quan điểm của ông, người học bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài và bởi các yếu tố bên trong lớp học trong quá trình học một ngôn ngữ mới. Trong bài viết thứ hai “Tạo động lực cho học sinh học tiếng Anh”, Yu Run – Mei (2007) đã trình bày lại quan điểm của các nhà tâm lý học về phân loại động cơ. Họ cũng phân loại nó thành hai loại: công cụ và tích hợp, trong đó động cơ công cụ liên quan đến mục tiêu học ngôn ngữ thứ hai và loại còn lại liên quan đến mong muốn hiểu văn hóa của các nhóm ngôn ngữ thứ hai.

Trong cả hai bài viết, các tác giả đã giới thiệu cách học sinh Trung Quốc học tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai theo khía cạnh động lực. Tuy nhiên, nghiên cứu của Yu Run-Mei đã đưa ra nhiều sự thật hơn về mối quan tâm đối với động cơ học tập của các nhà giáo dục cũng như các nhà nghiên cứu. Trong khi đó, Bo Yang đặt ra câu hỏi giáo viên nên làm thế nào để tiết học trở nên thú vị, hấp dẫn giúp người học tối ưu hóa động lực học trong lớp.

Để kích hoạt và tối ưu hóa động cơ của học sinh, sinh viên trong việc học ngôn ngữ thứ hai, trong phần tiếp theo của hai nghiên cứu, tác giả đưa ra một số cách hiệu quả mà họ đã và đang thực hiện.

Trong bài báo của tác giả Bo Wang, ông đưa ra ba cách chính để tập trung vào động cơ của học sinh. Ở cách thứ nhất, ông đề cập đến mô hình lớp học lấy học sinh làm trung tâm. Tác giả khuyến nghị giáo viên nên tạo cơ hội cho học sinh tham gia vào các hoạt động trong lớp học để sử dụng ngôn ngữ mới và thực hành trong bối cảnh ngôn ngữ thực tế. Sau đó, ông đặc biệt khuyến nghị cách phát triển sự đồng cảm về văn hóa của học sinh và cho rằng “Có vẻ hợp lý khi cho rằng việc phát triển thái độ tích cực đối với nền văn hóa và người bản ngữ của ngôn ngữ đích sẽ chuyển thành động lực tích hợp cho việc học ngôn ngữ”. Ông cũng đánh giá cao vai trò của văn hóa trong việc học một ngôn ngữ bởi theo ông, thái độ tích cực đối với nền văn hóa của một ngôn ngữ mới và những người nói ngôn ngữ đó ảnh hưởng rõ rệt đến hiệu quả của việc tiếp thu ngôn ngữ đó. Cách cuối cùng để tạo động lực cho học sinh mà Bo Wang gợi ý trong nghiên cứu của mình là khuyến khích và khen ngợi học sinh đúng lúc. Ông đã chứng minh rằng sự khen ngợi và động viên phù hợp và kịp thời sẽ hình thành thái độ tích cực của học sinh để làm chủ quá trình học tập của mình.

Mặt khác, Yu Run – Mei (2007) chỉ ra ba cách hữu ích và thiết thực khác để thúc đẩy học sinh học tiếng Anh. Động lực thực hiện nhiệm vụ là cách đầu tiên tác giả đề cập. Nó có nghĩa là động cơ thực hiện một nhiệm vụ học tập cụ thể liên quan đến sự thành công trong giao tiếp. Bằng cách hoàn thành loại nhiệm vụ này, hứng thú nội tại của học sinh được nuôi dưỡng và sau đó các em sẽ đạt được mục tiêu học tập của mình. Tuy nhiên, có một thực tế mà ông kết luận là thiếu yếu tố tạo động lực thực hiện nhiệm vụ trong sách giáo khoa dành cho người học tiếng Trung; và điều này đặt ra trách nhiệm cho giáo viên trong việc thiết kế các nhiệm vụ đa dạng và thách thức để tạo động lực cho học sinh. Đây cũng là vai trò của giáo viên – cách thứ hai mà ông muốn đề xuất. Bằng cách trích dẫn quan điểm của Clement, Dornyei & Noels (1994:48) “các phương pháp giảng dạy ngôn ngữ hiện nay nhằm phát triển năng lực giao tiếp của người học bằng cách thúc đẩy sự tương tác trong lớp học giữa những người học khi họ tham gia vào các sự kiện giao tiếp”, ông ngụ ý rằng sự tương tác trong các hoạt động trong lớp học và mức độ tham gia của sinh viên đóng một vai trò quan trọng. Vì vậy, giáo viên nên có phương pháp giảng dạy phù hợp và tạo mối quan hệ thân thiện, bình dị với học sinh trong một bầu không khí thoải mái. Ở cách thứ hai này, Yu Run-mei cũng có chung ý tưởng trong việc động viên học sinh học tập bằng cách khen ngợi hoặc khen thưởng. Thu thập phản hồi từ người học là cách thứ ba mà tác giả muốn trình bày. Ông coi đó là một yếu tố tác động đến động cơ học tập của sinh viên. Tuy nhiên, phản hồi như thế nào và khi nào, loại phản hồi nào sẽ được sử dụng là những điều giáo viên nên cân nhắc. Ông đã trích dẫn từ Dornyei (1997) rằng “thông tin phản hồi nên mang tính khuyến khích hơn là kiểm soát; phản hồi nên tích cực và không nên quá nhấn mạnh khuyết điểm của học sinh”. Theo ông, giáo viên cần thận trọng khi sửa lỗi cho học sinh bằng cách nhận xét để không làm học sinh nhụt chí, mất hứng thú. Đồng thời, ông cũng đặc biệt nhấn mạnh đến thực trạng tâm lý học tiếng Trung của sinh viên, bởi phần lớn người học tiếng Trung đều rụt rè, sợ mắc lỗi nên khi đưa ra phản hồi phải hết sức tế nhị.

Nhìn chung, các giải pháp do hai tác giả rút ra đều có hiệu quả chung và có thể thực hiện ở bất kỳ lớp học tiếng Anh nào ở mọi trình độ. Hiệu quả của các phương pháp Yu Run-mei đã được chứng minh trong phân tích kết quả của bảng câu hỏi mà ông đưa ra.

Thảo luận
Dựa trên kinh nghiệm của bản thân trong nhiều năm giảng dạy tiếng Anh, tôi nhận thức rõ rằng động lực đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc hình thành khả năng và hứng thú của sinh viên trong việc học một ngôn ngữ mới như tiếng Anh. Và thái độ của người học đối với ngôn ngữ đích và văn hóa của cộng đồng nói  tiếng Anh đóng một vai trò quan trọng trong động lực học ngôn ngữ. Việc xây dựng các kỹ thuật tạo động lực cần dựa trên phương pháp kết hợp: từ bản thân sinh viên: nhu cầu, hứng thú, năng lực, kiến thức… và các yếu tố bên ngoài: giáo viên, tài liệu, điều kiện học tập….

Động lực cũng phụ thuộc nhiều vào sự tương tác xã hội giữa người dạy và người học. Theo đó, những sinh viên có động lực cao cần có sự tương tác giữa các cá nhân và xã hội mạnh mẽ để có môi trường học tập hiệu quả. Theo Cooper & McIntyre (1998 như được trích dẫn trong Gomleksiz 2001), nếu người ta chấp nhận rằng việc học phụ thuộc vào việc tương tác giữa các cá nhân và xã hội, thì điều đó sẽ xảy trong những bối cảnh khiến những hình thức tương tác này trở nên được mong muốn hoặc ít nhất là phù hợp - một điều kiện tiên quyết cần thiết của việc học tập hiệu quả. Cũng có thể nói, các hình thức tương tác phù hợp giúp người học giải quyết các vấn đề của mình trong quá trình học. Không thể phủ nhận tầm quan trọng của giáo viên đối với mức độ động lực của sinh viên trong việc tiếp thu ngôn ngữ thứ hai bởi vì giáo viên được coi là người tạo ra động lực của học sinh. Giáo viên có thể tạo động lực cho người học bằng chính thái độ tích cực của họ. Trong quá trình giảng dạy, họ có thể sử dụng nhiều phương tiện và chiến lược dạy học như đa phương tiện hoặc đồ dùng dạy học công nghệ mới trong lớp học. Hoặc nếu không, giáo viên cũng có thể tạo điều kiện cho họ về kiến ​​thức văn hóa của ngôn ngữ. Điều đó khiến sinh viên quan tâm hơn và khuyến khích họ tìm hiểu về ngôn ngữ.

Trường Đại học CN Dệt may Hà Nội đang giảng dạy đa dạng các chuyên ngành: công nghệ may, thời trang, cơ khí, quản lý công nghiệp, thương mại điện tử…… nên mục tiêu cuối cùng của học viên là làm chủ khả năng tiếng Anh của mình trong các lĩnh vực cụ thể và giao tiếp hiệu quả trong thế giới hội nhập. Trong trường nói chung và lớp học của tôi nói riêng, tôi thấy rằng động lực bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi cả yếu tố bên trong và bên ngoài. Như vậy, nhu cầu và điều kiện học tiếng Anh của sinh viên dường như là yếu tố chính tác động đến họ nhiều nhất. Theo quan điểm của tôi, động cơ bên trong ảnh hưởng trực tiếp nhất đến hiệu quả dạy học, quyết định đến việc xác định hứng thú của học sinh. Hơn nữa, động cơ học tập gắn liền với chiến lược học ngoại ngữ và sự tương tác giữa người dạy và người học, do đó, có ảnh hưởng ở một mức độ nào đó đến hiệu quả học ngoại ngữ. Nhờ đó, động cơ học tập càng cao, người học càng say mê học tập thì việc học tập càng đạt hiệu quả cao.

Theo quan điểm của tôi, tôi coi những cách tạo động lực cho học sinh mà Bo Wang đề xuất vượt trội hơn những cách của Yu Run-mei. Những cách này dường như nâng cao động lực bên trong hơn là bên ngoài. Trong sự nghiệp giảng dạy của mình, tôi đã sử dụng và thấy rằng chúng thực sự có hiệu quả đối với học sinh của mình. Hơn nữa, tôi nghĩ rằng động lực giảng dạy của giáo viên cũng không kém phần quan trọng. Điều này khiến họ phải nỗ lực nhiều trong việc tìm tòi nội dung dạy học, phương pháp dạy học nhằm tạo ra một môi trường học ngoại ngữ vui vẻ, tự nhiên và hài hòa. Khi động cơ được kích hoạt, học sinh sẽ có mong muốn đạt được mục tiêu, kết hợp sự tham gia một cách tích cực với năng lượng để làm việc hướng tới mục tiêu đó. Vì vậy, một giáo viên phải biết các nguồn động lực để có thể hỗ trợ mong muốn thành công của người học. Thực tế này chứng tỏ rằng cả giáo viên và học sinh nên có động lực chung. Chỉ bằng cách này, chúng ta mới có thể giúp hình thành một vòng tròn tương quan giữa động lực và thành công, từ đó thúc đẩy thành tích ngôn ngữ của sinh viên một cách hiệu quả.

 (Tháng 5 năm 2023)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bo Wang (January 2009). Motivation and Language Learning. Asian Social Science          Volume 5 No.1
Gomleksiz, M. (2001) . The effects of age and motivation factors on second language       acquisition. F.Ü.Sosyal Bilimler Dergisi 2001 11 (2)
Keller, J.M. (1993). Motivation design of instruction. In C.M. Reigeluth (Ed.),        Instructionl design theories and models. Hillsdale, New Jersey: Erlbaum
Littlewood, W. 1984. Foreign and Second Language Learning: Language Acquisition      Research and its Implications for the Classroom. Cambridge: Cambridge          University Press.
Oxford, R.L & Shearin, J. (1999). Language Learning Motivation: Pathways to the            new century. Hawaii: University of Hawaii’s Press
YU Run-Mei (April 2007). Motivating English Students in Class. Sino-US English            Teaching. Volume 4 No.4
© Bản quyền 2017 thuộc về Trường Đại Học Công nghiệp Dệt may Hà Nội
Online: 134 Tổng truy cập: 30.256.212