Trang chủ

Chất lượng và yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm may

Ngày đăng: 09:10 - 22/07/2024 Lượt xem: 950

Dương Thị Tân, khoa Kinh tế,
trường Đại học Công nghiệp Dệt May Hà Nội

ĐẶT VẤN ĐỀ

Chất lượng sản phẩm có tầm quan trọng sống còn đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp may nói riêng bởi nếu một doanh nghiệp tạo ra được những sản phẩm có chất lượng tốt sẽ tạo ra sức hấp dẫn thu hút người mua, tăng doanh thu, giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Nhờ tăng chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ, vị thế của doanh nghiệp ngày càng được củng cố và mở rộng, là cơ sở cho sự phát triển lâu dài. Doanh nghiệp có nguồn thu tăng dẫn tới mức sống của người dân sẽ tăng lên và cuối cùng là tăng ngân sách Nhà nước và giải quyết những vấn đề xã hội. Nâng cao chất lượng sản phẩm là cơ sở quan trọng cho việc thúc đẩy quá trình hội nhập, giao lưu kinh tế và mở rộng trao đổi thương mại quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam. Muốn nâng cao chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp may nói riêng cần phân tích và nắm rõ được những yếu tố nào đang ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm từ đó có giải pháp trong dài hạn cũng như các biện pháp trong ngắn hạn để tác động vào những yếu tố ảnh hưởng chưa tốt tới chất lượng nhằm cải tiến và đảm bảo chất lượng cho sản phẩm của doanh nghiệp mình. Bài viết này nhằm mục đích đưa ra cái nhìn tổng quát nhất về các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm trong doanh nghiệp nói chung và những doanh nghiệp may nói riêng.

Chất lượng sản phẩm

Theo Eward Deming: “Chất lượng là sự phù hợp với mục đích sử dụng hay sự thỏa mãn khách hàng.” Sự phù hợp là sự đáp ứng một yêu cầu [1].

Theo Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9000: 2015 thì “chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có của một đối tượng đáp ứng các yêu cầu”.

Trong khái niệm chất lượng được nêu trong Tiêu chuẩn quốc gia ISO 9000:2015, có một số thuật ngữ cần được xác định rõ như sau:

Đặc tính là đặc trưng để phân biệt [3]. Một đặc tính có thể vốn có hay được gán thêm. Một đặc tính có thể là định tính hay định lượng. Có nhiều loại đặc tính khác nhau như:

+ Vật lý. Ví dụ: đặc tính cơ, điện, hoá sinh;

+ Cảm quan. Ví dụ: các đặc tính liên quan đến ngửi, sờ, nếm, nhìn, nghe;

+ Hành vi. Ví dụ: nhã nhặn, trung thực, chân thật;

+ Thời gian. Ví dụ: đúng lúc, tin cậy, sẵn có;

+ Ergonomic. Ví dụ: đặc trưng tâm lý hay liên quan đến an toàn của con người;

+ Chức năng. Ví dụ: vòng quay tối đa của máy may.

Đối tượng là bất cứ điều gì có thể cảm nhận được hoặc nhận  biết được. Đối tượng có thể là vật chất, phi vật chất hoặc được hình dung [3].

Yêu cầu: “là nhu cầu hay mong đợi đã được công bố, ngầm hiểu chung hay bắt buộc”.[3]

“Ngầm hiểu chung” nghĩa là những gì thực tế đang diễn ra mang tính thông lệ hay phổ biến đối với một tổ chức, khách hàng của tổ chức và các bên quan tâm khác, nghĩa là nhu cầu hay mong đợi được xem là ngầm hiểu.[3]

Từ quan niệm về chất lượng nêu trên có thể phát triển quan niệm chất lượng sản phẩm như sau: chất lượng sản phẩm là tổng hợp các tính chất, các đặc trưng của sản phẩm tạo nên giá trị sử dụng, thể hiện khả năng, mức độ thoả mãn nhu cầu tiêu dùng với hiệu quả cao trong những điều kiện sản xuất, kinh tế và xã hội nhất định.[2]

Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm may

Những yếu tố môi trường bên ngoài

Tình hình và xu thế phát triển kinh tế thế giới

Môi trường kinh tế là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến khả năng phát triển của các doanh nghiệp (DN) nói chung và chất lượng sản phẩm may nói riêng. Sự phát triển của kinh tế tạo môi trường kinh doanh giúp các DN có khả năng tập trung nguồn lực cho nâng cao chất lượng sản phẩm. Những đặc điểm và xu thế phát triển kinh tế thế giới hiện nay đã và đang ảnh hưởng mạnh đến khả năng cũng như định hướng phát triển chất lượng sản phẩm may: [2]

- Quá trình toàn cầu hóa kinh tế và tự do hóa thương mại diễn ra nhanh vào cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI đã tạo ra khả năng hợp tác liên kết trong sự phát triển nhưng đồng thời cũng tạo áp lực rất lớn đến các DN may trong việc nghiên cứu thiết kế ra sản phẩm mới phù hợp với xu hướng, thị hiếu của người tiêu dùng, đó là ngày càng đòi hỏi cao về chất  lượng sản phẩm.

- Sự phát triển không ổn định của nền kinh tế thế giới trong những năm gần đây, cũng là một thách thức đối với các DN. Những bất ổn về kinh tế kéo theo sự thay đổi về nhu cầu của thị trường cũng như sự khó kiểm soát nhu cầu của DN qua đó ảnh hưởng đến các yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng đặt ra.

- Cạnh tranh giữa các DN trên thị trường thế giới có xu thế ngày càng trở nên gay gắt cộng với sự bão hòa của thị trường là những yếu tố tác động mạnh, đòi hỏi DN phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm để thu hút khách hàng mới và duy trì khách hàng hiện tại.

- Xu thế của các ngành công nghiệp trên thế giới trong đó có ngành công nghiệp may mặc là phải ngày càng tìm ra nhiều giải pháp cải thiện chất lượng sản phẩm. Ví dụ như ngành công nghiệp may Việt Nam hiện nay được xem là ngành có năng lực sản xuất các mặt hàng chất lượng từ khá trở lên; vì thế, các DN may Việt Nam muốn duy trì được lợi thế này thì cần tập trung mọi nguồn lực để nâng cao hơn nữa chất  lượng sản phẩm nhằm tiếp tục duy trì lợi thế cạnh tranh về chất lượng.

Tình hình thị trường

 Đây là yếu tố quan trọng nhất, là cơ sở  tạo động lực định hướng cho việc phát triển sản phẩm.

Bất kỳ sản phẩm nào, không riêng gì sản phẩm may mặc, muốn tồn tại được thì phải đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, của thị trường. Xu hướng phát triển, hoàn thiện và cải tiến chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào đặc điểm của thị trường. Thị trường càng đa dạng, nhu cầu càng phong phú đòi hỏi DN không ngừng nghiên cứu cải tiến chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng. Do đó, DN cần phải quan tâm đến việc điều tra, nghiên cứu thị trường, nắm bắt nhu cầu về chất lượng sản phẩm của khách hàng; đây là cơ sở quan trọng cho các hoạt động phát triển và cải tiến chất lượng sản phẩm.

Đặc điểm của thị trường dệt may trong giai đoạn hiện nay là nhu cầu đa dạng, phong phú tùy vào đối tượng người tiêu dùng; tính thời trang cao đòi hỏi thường xuyên phải thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, … Mỗi một thị trường lại khác nhau về phong tục, tập quán, thói quen tiêu dùng, yêu cầu về sản phẩm cũng như chính sách, thể chế. Do đó, DN dệt may cần tập trung nghiên cứu kỹ các yếu tố trên của thị trường mục tiêu, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.

Bên cạnh đó, tính chất và mức độ cạnh tranh trên các thị trường cũng ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Trong nhiều trường hợp, yêu cầu cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm lại đến từ áp lực cạnh tranh của thị trường hoặc đối thủ cạnh tranh. Trong quá trình sản xuất và tiêu thụ những dòng sản phẩm cùng loại với DN khác, cần xem xét, đối sánh với những sản phẩm của họ để từ đó có thể học hỏi những kinh nghiệm, ý tưởng của đối thủ cạnh tranh tốt nhất trên thị trường nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Cạnh tranh gay gắt mang tính quốc tế gia tăng cả về phạm vi, đối tượng và tính chất, đặt ra những đòi hỏi cấp bách buộc các DN phải quan tâm tới chất lượng, nâng cao chất lượng để phù hợp với nhu cầu thị trường.

Trình độ tiến bộ khoa học, công nghệ

Chất lượng của sản phẩm luôn đi cùng với trình độ phát triển, tiến bộ của khoa học, công nghệ trong từng giai đoạn lịch sử nhất định đặc biệt là sự ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 như hiện nay.

Nếu như nhu cầu thị trường là cơ sở, tạo động lực định hướng cho việc phát triển sản phẩm thì các tiến bộ của khoa học và công nghệ là giải pháp thực hiện hoạt động nâng cao và cải tiến chất lượng sản phẩm.

 Trình độ tiến bộ của khoa học, công nghệ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm thông qua các nội dung sau:

-Tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra các phương tiện điều tra, nghiên cứu khoa học chính xác hơn, xác định đúng nhu cầu của thị trường và biến đổi nhu cầu đó thành đặc tính sản phẩm chính xác hơn nhờ trang bị các phương tiện  đo lường, dự báo, thí nghiệm, thiết kế tốt hơn, hiện đại hơn, tốc độ nhanh hơn. Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 thì những vấn đề này sẽ được giải quyết tốt hơn và hiệu quả hơn nhờ công nghệ số. Theo TS Ngô Văn Nhơn, Chủ tịch Hội Chất lượng TPHCM: Quản lý chất lượng trong kỷ nguyên số, việc đánh giá được thực hiện trong tất cả các khâu từ lập kế hoạch, thiết kế, sản xuất, marketing… dựa trên nền tảng Big Data, IoT, trí tuệ nhân tạo... Điều này được thực hiện bằng cách cải thiện quy trình quản lý chất lượng truyền thống hiện có, để đạt được mức chất lượng cao hơn. Trong đó, TQM (quản lý chất lượng toàn diện) tham gia với công nghệ 4.0 để hoàn thiện hơn hệ thống chất lượng. Các doanh nghiệp có thể tiếp cận quản lý chất lượng 4.0 như: quy trình sản xuất, hệ thống đo lường, biến dữ liệu lớn thành dữ liệu thông minh… đồng thời cần đổi mới tư duy về quản trị doanh nghiệp sao cho phù hợp với xu thế phát triển của CMCN 4.0 [4].

- Áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất giúp nâng cao các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của sản phẩm may như tỷ lệ hàng lỗi giảm, độ bền của sản phẩm tăng, ... Đây đều là các chỉ tiêu giúp nâng cao chất  lượng sản phẩm may.

- Nhờ tiến bộ khoa học công nghệ cho phép thay thế các nguồn nguyên liệu cũ bằng nguyên liệu mới tốt hơn, rẻ hơn và có chất lượng cao hơn. Trong công nghiệp may mặc, xu thế thay thế nguyên liệu nhân tạo có nguồn gốc từ dầu mỏ bằng các nguyên liệu có nguồn gốc thiên nhiên, thân thiện với môi trường, an toàn cho sức khỏe ngày càng trở nên phổ biến.

- Tiến bộ khoa học công nghệ giúp hình thành các phương pháp quản lý tiên tiến, hiện đại góp phần nắm bắt nhu cầu thị trường chính xác hơn đồng thời giảm thiểu chi phí sản xuất từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm. Điển hình là việc ứng dụng công nghệ nhận dạng bằng tần số vô tuyến (RFID) trong quản lý vòng đời sản phẩm may đã giúp công tác QLCL sản phẩm trở nên chính xác hơn, tốc độ nhanh hơn và tiết kiệm hơn.

Cơ chế chính sách quản lý kinh tế của các quốc gia

Cơ chế chính sách quản lý kinh tế của các quốc gia có tác động trực tiếp và to lớn đến việc tạo ra và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Cơ chế quản lý kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư, nghiên cứu, thiết kế và phát triển sản phẩm. Cơ chế này cũng tạo sức ép thúc đẩy các DN phải nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua cơ chế khuyến khích, cạnh tranh, buộc các DN không ngừng nâng cao tính tự chủ trong việc cải tiến chất lượng sản phẩm.

Ngoài ra, cơ chế quản lý kinh tế còn giúp tạo ra môi trường lành mạnh, công bằng đảm bảo quyền lợi cho các DN sản xuất, đầu tư cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo vệ người tiêu dùng trong việc đảm bảo chất lượng. Một cơ chế quản lý kinh tế phù hợp sẽ kích thích các DN đầu tư, cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm và ngược lại.

Chất lượng sản phẩm may chịu tác động bởi cơ chế chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước như chính sách đầu tư, chính sách phát triển ngành dệt may, chính sách thuế đối với ngành, các chính sách đối ngoại, các quy định về xuất nhập khẩu, chính sách giá cả,….Các cơ chế trên tác động tích cực lẫn tiêu cực đến việc cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm may mặc. Tại Việt Nam, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường vào thập kỷ 80 của thế kỷ XX đã tạo ra áp lực cạnh tranh giữa các DN cùng sản xuất một loại sản phẩm, đòi hỏi các DN phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể đáp ứng yêu cầu thị trường.

Các yếu tố văn hóa, xã hội

Ngoài các yếu tố trên, yêu cầu về văn hóa, xã hội cũng có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành các đặc tính chất lượng của sản phẩm. Những đặc điểm về văn hóa, xã hội, phong tục, tập quán truyền thống, thói quen tiêu dùng các sản phẩm may mặc của mỗi quốc gia, khu vực ảnh hưởng đến việc sản phẩm có được chấp nhận ở thị trường cụ thể hay không. Sự thành bại của DN phụ thuộc vào sự am hiểu, thiết kế và tạo ra những sản phẩm phù hợp với thuần phong mỹ tục của khu vực đó. Song hành với việc nghiên cứu thị trường là việc nghiên cứu và am hiểu về đặc điểm văn hóa, xã hội của khu vực đó như các đặc điểm về tôn giáo, mức độ quan tâm đến sức khỏe, ...để tạo ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.

Những yếu tố bên trong DN

Thông thường, có bốn yếu tố bên trong ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm của DN (quy tắc 4M), đó là con người (men), thiết bị công nghệ hiện có của DN (machines), nguyên phụ liệu (materials), hệ thống phương pháp (methods).

Con người

Yếu tố con người là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến chất lượng sản phẩm. Yếu tố con người ở đây được hiểu là tất cả thành viên trong DN từ cấp lãnh đạo đến công nhân và người tiêu dùng nội bộ (khách hàng nội bộ) cùng tham gia vào quá trình tạo ra chất lượng sản phẩm. Đối với cấp lãnh đạo cần có nhận thức mới về việc nâng cao chất lượng sản phẩm để có những chính sách đúng đắn về chất lượng sản phẩm, các biện pháp khích lệ tinh thần, vật chất để nâng cao chất lượng sản phẩm. Đối với người lao động trong DN cũng cần nhận thức rằng nâng cao chất lượng sản phẩm là trách nhiệm và vinh dự của mình, là sự sống còn đối với DN cũng như bản thân.

Chất lượng sản phẩm may phụ thuộc rất lớn vào trình độ quản lý của DN. Một DN có bộ máy tổ chức quản lý tốt sẽ tạo môi trường, động lực, phối hợp các thành viên trong DN cùng nhau tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao đồng thời khuyến khích năng lực sáng tạo của người lao động trong việc cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Do đó, cần phải nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý trong DN.

Ngoài ra, ngành công nghiệp may mặc là ngành sử dụng nhiều lao động nên chất lượng sản phẩm may phụ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên môn, khả năng thiết kế, tay nghề, kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm, …. của các thành viên, bộ phận trong DN. Đây là đội ngũ lao động trực tiếp tạo ra sản phẩm nên cần có các biện pháp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người lao động, qua đó tạo ra những sản phẩm thỏa mãn nhu của khách hàng bên ngoài và nhu cầu khách hàng nội bộ.

Thiết bị, công nghệ hiện có của DN

Cùng với con người, công nghệ cũng là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự hình thành chất lượng sản phẩm.

Cơ cấu công nghệ, thiết bị và khả năng bố trí thiết bị ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Các DN tiến hành hoạt động sản xuất cần phải xác định điều kiện nhất định về thiết bị và công nghệ. Mỗi điều kiện khác nhau về yếu tố này sẽ tạo ra những sản phẩm có chất lượng khác nhau. Thiết bị và công nghệ lạc hậu khó tạo ra một sản phẩm có chất lượng cao và ngược lại.

Lựa chọn, quản lý tốt thiết bị và công nghệ trên cơ sở xác định đúng phương hướng đầu tư phát triển sản phẩm mới và tận dụng công nghệ hiện có sẽ giúp DN tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ.

Ngành công nghiệp may mặc là ngành có tỷ suất đầu tư tính cho một chỗ làm việc không cao so với một số ngành công nghiệp như sợi, dệt, nhuộm...; thời gian hoàn vốn đầu tư của ngành công nghiệp may mặc cũng ngắn hơn so với các ngành kể trên nên trong lĩnh vực dệt may, đây là ngành có chu kỳ đổi mới công nghệ, trang thiết bị ngắn hơn và giúp cải thiện chất lượng sản phẩm với tốc độ nhanh hơn. Tuy vậy, khả năng đầu tư, đổi mới thiết bị và công nghệ vẫn phụ thuộc vào tình hình thiết bị hiện có, khả năng tài chính và huy động vốn của DN, nhất là các DN vừa và nhỏ.

Nguyên phụ liệu và hệ thống cung ứng

Nguyên phụ liệu là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của các DN may, ảnh hưởng quyết định trực tiếp đến chất lượng sản phẩm may. Chất lượng nguyên phụ liệu khác nhau cho ra đời các sản phẩm có mức chất lượng khác nhau. Vì vậy, muốn  sản phẩm may có chất lượng tốt thì chất lượng nguyên phụ liệu đầu vào phải đảm bảo đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật theo thiết kế.

Tính đồng nhất và tiêu chuẩn hóa của nguyên phụ liệu là cơ sở quan trọng cho việc ổn định chất lượng sản phẩm. Trong ngành công nghiệp may mặc, nguyên liệu đầu vào thường là vải được sản xuất thành nhiều lô riêng biệt nên rất dễ xảy ra tình trạng chất lượng đầu vào không đồng nhất giữa các cây vải về màu sắc, chất lượng sợi, chất  lượng khâu dệt, ... Đây là điểm cần đặc biệt lưu ý trong QLCL sản phẩm may.

Hiện nay, với tình trạng nguồn tài nguyên thiên nhiên có nguy cơ cạn kiệt, việc sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên hiện có và không ngừng tìm tòi, sáng tạo ra những vật liệu mới thay thế để tạo ra những sản phẩm có chất lượng là xu thế được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Những vật liệu mới được tập trung nghiên cứu trong lĩnh vực may mặc giúp tạo ra các loại vải có thể thấm mồ hôi, chống tia cực tím, giữ nhiệt, không nhăn, ... Trong thời kỳ công nghiệp 4.0, nhiều dự báo cho thấy trong tương lai gần, con người hoàn toàn có thể sản xuất các loại trang phục mà vật liệu làm ra chúng có thể giúp kiểm soát sức khỏe hoặc kết nối internet. Những vật liệu mới như trên là yếu tố hết sức quan trọng đóng góp tích cực vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm may.

Để thực hiện được các mục tiêu chất lượng đề ra, các DN may cần tổ chức tốt hệ thống cung ứng nguyên phụ liệu, đảm bảo đúng số lượng, chất lượng, chủng loại và thời gian giao hàng kịp tiến độ sản xuất. Muốn tổ chức tốt hệ thống cung ứng, DN cần thiết lập mối quan hệ với nhiều nhà cung ứng, phối hợp chặt chẽ và tạo mối quan hệ tốt với các nhà cung ứng ổn định.

Hệ thống các phương pháp sử dụng trong DN

Hệ thống các phương pháp được sử dụng trong DN bao gồm phương pháp quản lý, phương pháp sản xuất, cách thức điều hành.

Nếu một DN có ưu thế về yếu tố con người, nguyên phụ liệu, máy móc thiết bị,… nhưng không có một hệ thống phương pháp tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh khoa học thì không thể đảm bảo chất lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong hệ thống các phương pháp trên thì phương pháp quản lý đóng vai trò quyết định đến các phương pháp còn lại.

Phương pháp quản lý tác động đến chất lượng sản phẩm may ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, từ nghiên cứu nhu cầu khách hàng, thiết kế mẫu, lập kế hoạch sản xuất, kiểm tra chất lượng sản phẩm, kiểm soát quá trình đến điều chỉnh sự không phù hợp và cung cấp những thông tin chắc chắn đảm bảo được sự ổn định về chất lượng của sản phẩm và nâng cao uy tín của DN trên thị trường.

Nhiều ý kiến cho rằng, công nhân gắn liền trực tiếp với sản xuất, chịu trách nhiệm chính về chất lượng sản phẩm. Thực ra, phần lớn những nguyên nhân dẫn đến vấn đề chất lượng và năng suất thấp thuộc về hệ thống và nằm ngoài quyền năng của người công nhân. Hệ thống được thiết kế như thế nào sẽ đem lại kết quả tương ứng như vậy và người lao động trong hệ thống không phải là  nguyên nhân chủ yếu gây ra lỗi.

Theo W.Edwards Deming, 85% chất lượng sản phẩm có đạt được hay không nằm ở vấn đề quản lý, còn theo một số nghiên cứu tại Mỹ, 80-85% vấn đề về chất lượng là lỗi của hệ thống quản lý không hoàn hảo. Do đó, hoàn thiện hệ thống quản lý là biện pháp và cơ hội tốt nhất trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, thỏa mãn nhu cầu khách hàng, giảm thiểu chi phí.
KẾT LUẬN

Sau khi nắm rõ các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, các DN may có thể tự mình xem xét, đánh giá từng yếu tố và có quyết định phù hợp tác động vào từng yếu tố nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Tùy theo điều kiện từng doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể nghiên cứu những yếu tố môi trường bên ngoài như: Tình hình và xu thế phát triển kinh tế thế giới; Tình hình thị trường; Trình độ tiến bộ khoa học, công nghệ; Cơ chế chính sách quản lý kinh tế của các quốc gia; Các yếu tố văn hóa, xã hội và đưa ra giải pháp chiến lược phù hợp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Nhưng quan trọng hơn là nội lực, doanh nghiệp cần tác động vào những yếu tố bên trong DN như: Con người; Thiết bị, công nghệ hiện có của DN; Nguyên phụ liệu và hệ thống cung ứng; Hệ thống các phương pháp sử dụng trong DN để từ đó tăng mức chất lượng của sản phẩm của DN mình nhằm thỏa mãn tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Đình Phan chủ biên (2005), Giáo trình quản lý chất lượng trong các tổ chức, NXB Lao động Xã hội

2. TS. Hoàng Xuân Hiệp chủ biên (2021), Giáo trình Quản lý chất lượng trong doanh nghiệp may công nghiệp, NXB Giáo Dục Việt Nam

3. TCVN Tiêu chuẩn Quốc gia (2016), TCVN ISO 9000: 2015; Hệ thống quản lý chất lượng- Cơ sở và từ vựng, Tổng cục đo lường chất lượng
4. https://www.vista.gov.vn/vi/news/khoa-hoc-ky-thuat-va-cong-nghe/quan-ly-chat-luong-trong-thoi-ky-cmcn-4-0-763.html


© Bản quyền 2017 thuộc về Trường Đại học công nghiệp dệt may Hà Nội.
Online: 181 Tổng truy cập: 30.909.306