Tóm tắt: Thời gian qua, thế giới đã chứng kiến những thành tựu to lớn trên lĩnh vực kinh tế tại hầu hết các quốc gia. Hàng hóa, dịch vụ được tạo ra ngày càng nhiều hơn, với chất lượng cao hơn do đó đã thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của con người, chất lượng cuộc sống dần được nâng lên. Tuy nhiên, mô hình phát triển kinh tế trước đây chủ yếu dựa vào việc sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, coi đó là nhân tố chính để tạo ra tăng trưởng kinh tế thì đã xuất hiện nhiều vấn đề liên quan đến sự bền vững của quốc gia. Do đó, tăng trưởng xanh được xem là một giải pháp hợp lí trong việc thỏa mãn được mục tiêu vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn đảm bảo được sự bền vững. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung tìm hiểu kinh nghiệm của một số quốc gia về chính sách tài chính hỗ trợ tăng trưởng xanh, từ đó gợi ý một số khuyến nghị cho Việt Nam.
Từ khóa: Tăng trưởng xanh, chính sách tài chính, nhà nước.
-
Khái niệm tăng trưởng xanh và thực tế chính sách tài chính hỗ trợ tăng trưởng xanh tại Việt Nam
Trong sự phát triển chung của toàn cầu, nhiều quốc gia đã có sự đánh đổi giữa việc hi sinh nguồn tài nguyên, chấp nhận các hậu quả môi trường sinh thái để có được một tốc độ tăng trưởng cao. Ngay cả tại các quốc gia phát triển như Mỹ, các nước Tây Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc…cũng đã không tránh được “lối mòn” này. Chính vì vậy, trên phạm vi toàn thế giới, diện tích rừng đã giảm khoảng 40% trong vòng 300 năm qua; 50% diện tích đất ngập nước đã biến mất từ năm 1900; nguồn lợi từ các hệ sinh thái đó đang suy giảm, ô nhiễm môi trường xảy ra ở nhiều nơi, các thảm họa thiên nhiên diễn ra với tần suất và cường độ ngày càng cao hơn…Đó là lý do dẫn đến việc ra đời của ý tưởng phát triển mô hình tăng trưởng xanh, kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường tự nhiên, giảm khí thải carbon, xóa đói giảm nghèo và hướng tới tiến bộ xã hội vào những năm 1970 của thế kỷ trước. Vấn đề này trở nên cấp bách hơn trong hai thập kỷ qua nhất là sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008. Vào cuối năm 2008, Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP) đã phát động “Sáng kiến kinh tế xanh” với mục tiêu tăng cường hợp tác quốc tế ứng phó với khủng hoảng tài chính đi đôi với xử lý các vấn đề toàn cầu nhằm hướng tới phát triển bền vững của kinh tế thế giới hậu khủng hoảng. Sau đó một năm, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã đưa ra chiến lược tăng trưởng xanh.
Đến nay, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến khái niệm tăng trưởng xanh. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), tăng trưởng xanh là một phương thức để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế và phát triển trong khi duy trì bảo tồn môi trường, ngăn chặn sự mất mát về đa dạng sinh học và giảm thiểu việc sử dụng không bền vững tài nguyên thiên nhiên. Theo Tổ chức Kinh tế xã hội châu Á - Thái Bình Dương của Liên Hiệp Quốc (UNESCAP), tăng trưởng xanh là một chính sách tập trung vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững thân thiện với môi trường nhằm duy trì sự phát triển toàn diện về mặt xã hội và giảm thiểu lượng phát thải carbon. Theo Ủy ban Tăng trưởng xanh của Hàn Quốc, tăng trưởng xanh là hướng tăng trưởng mới nhằm đạt được sự tăng trưởng bền vững bằng cách giảm phát thải khí nhà kính và giảm thiểu các suy thoái môi trường. Theo Viện Nghiên cứu môi trường thuộc Trường Đại học Tổng hợp Kyoto (Nhật Bản), tăng trưởng xanh đồng nghĩa với việc xây dựng một xã hội carbon thấp đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ và hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Để thực hiện được nhiệm vụ này cần thiết phải giảm thiểu khí carbon trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, tăng cường bảo vệ môi trường và nguồn tài nguyên thiên nhiên, gia tăng chất lượng cuộc sống của người dân. Trong Chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam, tăng trưởng xanh được xác định là chiến lược thúc đẩy quá trình tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng sử dụng hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, thông qua tăng cường vào đổi mới công nghệ, vốn tự nhiên, công cụ kinh tế. Từ đó góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm nghèo và đảm bảo phát triển kinh tế bền vững.
Như vậy hiểu một cách cơ bản, tăng trưởng xanh là quá trình tái cơ cấu lại hoạt động kinh tế và cơ sở hạ tầng nhằm hướng đến sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, đảm bảo tăng trưởng GDP, xóa đói giảm nghèo, và hướng đến sự tiến bộ xã hội. Thuật ngữ “tăng trưởng xanh” và “phát triển bền vững” đều hàm ý phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, khác với “phát triển bền vững”, tăng trưởng xanh chú trọng đến mối quan hệ tương tác, phụ thuộc lẫn nhau giữa kinh tế và môi trường nhằm bảo đảm sự phát triển ổn định, hiệu quả, liên tục và bền vững trên cơ sở bảo vệ môi trường và lấy con người làm trung tâm (Hình 1). Hay nói cách khác, phát triển bền vững là mục tiêu dài hạn thì tăng trưởng xanh là công cụ hữu hiệu để đạt được mục tiêu đó. Do đó, tăng trưởng xanh có 3 đặc điểm chính là: (i) đầu tư thận trọng vào vốn tài nguyên, thay thế năng lượng hóa thạch bằng năng lượng tái tạo và công nghệ ít carbon; (ii) phát triển đô thị bền vững và giao thông ít carbon; (iii) thiết lập cơ chế tài chính, tài khóa cũng như xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách hỗ trợ phù hợp.
Hình 1: Mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường trong chiến lược tăng trưởng xanh
Quá trình chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng xanh có sự khác nhau tại các quốc gia, trong khi các nước phát triển tập trung chuyển đổi sang một xã hội ít carbon (nhấn mạnh đến yếu tố môi trường) thì các nước kém phát triển hơn lại nhấn mạnh vào yếu tố tăng trưởng trong xã hội ít carbon. Bên cạnh đó, bước đi, thời gian và chi phí để chuyển sang mô hình xanh giữa các quốc gia cũng có sự khác nhau, phụ thuộc vào đặc điểm của từng nước về nguồn lực tự nhiên, con người và trình độ phát triển. Nhìn chung, việc chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng xanh có hai con đường chính: có thể chuyển sang nền kinh tế xanh thông qua đầu tư, phát triển những lĩnh vực mới trong nền kinh tế có thể giúp xã hội phát triển, môi trường bền vững (áp dụng với các nước phát triển có nguồn tài chính dồi dào, nhân lực có trình độ cao); trong khi đó, các nền kinh tế đang phát triển phải tốn nhiều chi phí và thời gian hơn bằng cách điều chỉnh dần dần để nền kinh tế truyền thống trở nên thân thiện hơn với môi trường.
Nền kinh tế Việt Nam đã chuyển từ nông nghiệp sang sản xuất và dịch vụ nhưng tài nguyên thiên nhiên vẫn đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng môi trường ở Việt Nam hiện nay đang rất thấp. Ngành nông nghiệp sử dụng nhiều đất và nước hơn mức cần thiết, cùng với việc lạm dụng các hóa chất đầu vào trên phạm vi rộng. Nền kinh tế tiêu hao nhiều năng lượng, tiêu thụ gấp đôi lượng năng lượng trên một đơn vị GDP so với mức trung bình của Đông Á. Quá trình đô thị hóa đã làm lượng chất thải tăng mạnh, trong đó phần lớn chưa được xử lý và loại bỏ theo đúng cách. Kết quả là, mô hình tăng trưởng theo chiều rộng dựa trên một số ngành sử dụng tài nguyên thiên nhiên đã dẫn đến việc khai thác quá mức và làm cho môi trường suy thoái dần. Đồng thời, các mối quan ngại về môi trường đã dần trở nên trầm trọng hơn do sự phát triển của các hoạt động công nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng và các nguồn gây ô nhiễm gia tăng. Bên cạnh đó, các vấn đề môi trường ở Việt Nam đang trở nên trầm trọng hơn bởi sự gia tăng tương đối nhanh chóng của dân số sống ở các thành phố, từ 15 triệu người vào đầu những năm 2000, lên 34 triệu người vào năm 2018 và có thể lên tới 50 triệu người vào năm 2035. Các thành phố đang phát triển đã tăng mức phát thải cacbon và Hà Nội cũng như thành phố Hồ Chí Minh, hiện là một trong những trung tâm đô thị trên thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề của ô nhiễm không khí.
Nguồn: https://www.numbeo.com/pollution/rankings.jsp
Hình 2. Một số thành phố ô nhiễm không khí nhất thế giới vào giữa năm 2019
Phân tích ngắn gọn ở trên cho thấy nhu cầu cấp bách khi đất nước đang chứng kiến sự xuống cấp nhanh chóng của tài nguyên thiên nhiên, cùng với quản lý rác thải, ô nhiễm không khí, lũ lụt và nhiệt độ tăng. Điều này giải thích tại sao giá trị của tài sản tự nhiên của Việt Nam đã bị ảnh hưởng tiêu cực rất lớn và sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Ở Việt Nam, phạm trù “tăng trưởng xanh” mới xuất hiện từ năm 2010, kể từ sau Hội Nghị của chương trình môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) tại Nairobi, Kenya về “Phát triển bền vững”. Trên thực tế, Việt Nam đã luật bảo vệ môi trường đã ra đời từ cuối năm 1993, Luật này đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005 và tiếp tục bổ sung, sửa đổi hoàn thiện năm 2014. Hơn nữa, tính đến nay có trên 33 luật và hơn 22 pháp lệnh có nội dung liên quan đến công tác bảo vệ môi trường như luật đa dạng sinh học 2008, luật bảo vệ và phát triển rừng 2004; luật đất đai sử đổi 2013, luật thủy sản 2003, luật tài nguyên nước sửa đổi 2012, luật khoáng sản 2010...
Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7, khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/06/2013 nêu rõ nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới là “Thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững”. Đồng thời, Nghị quyết cũng đã khẳng định “Phát triển ngành kinh tế môi trường trên cơ sở ngành công nghiệp môi trường, dịch vụ bảo vệ môi trường và tái chế chất thải. Đẩy mạnh xã hội hóa bảo vệ môi trường, thúc đẩy phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, sản xuất và tiêu dùng bền vững”. Nghị quyết đã khẳng định sự gắn kết chặt chẽ bảo vệ môi trường với kinh tế.
Về chiến lược bảo vệ môi trường, tính đến nay, chúng ta đã có “Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 2001-2010”, tiếp đó là “Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”, và mới đây là chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 tại Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 05/09/2012. Những chiến lược này phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đã được xây dựng cho mỗi thời kỳ của quốc gia.
Từ những chính sách liên quan đến kinh tế xanh và bảo vệ môi trường cho thấy, chúng ta đang trong quá trình tìm tòi và hoàn thiện dần sự kết hợp hài hòa giữa hai phạm trù “Kinh tế xanh” và “bảo vệ môi trường”, hai phạm trù này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau để hướng tới và thực hiện thành công “phát triển bền vững”.
-
Kinh nghiệm quốc tế về việc sử dụng chính tài chính thúc đẩy tăng trưởng xanh
Việc chuyển đổi từ chiến lược “tăng trưởng nâu” lấy việc sử dụng các yếu tố tự nhiên làm động lực tăng trưởng sang chiến lược “tăng trưởng xanh” lấy việc sử dụng yếu tố con người, khoa học kỹ thuật và các hoạt động thân thiện với môi trường làm động lực là đã rõ. Tuy nhiên, việc chuyển đổi một mô hình chưa bao giờ là dễ dàng, nó đòi hỏi một quá trình lâu dài, với nhiều lực đây cần thiết, nhất là các hỗ trợ về mặt kinh tế, tài chính vì các hoạt động này tác động trực tiếp đến chi phí và lợi ích trong hoạt động của cá nhân và doanh nghiệp, qua đó ảnh hưởng tới hành vi của họ theo hướng có lợi cho môi trường. Việc đưa chi phí sử dụng môi trường trở thành một phần của chi phí sản xuất và tiêu dùng đã hỗ trợ nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Những biện pháp tài chính tế hỗ trợ tăng trưởng xanh được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng, bao gồm các giải pháp như: sử dụng ngân sách nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp và các hoạt động đầu tư cho tăng trưởng xanh; thuế và phí môi trường; hệ thống đặt cọc – hoàn trả; phát triển thị trường tài chính xanh.
Sử dụng ngân sách nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp và các hoạt động đầu tư cho tăng trưởng xanh
Một là, hỗ trợ doanh nghiệp. Để khuyến khích doanh nghiệp thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, Chính phủ có thể lựa chọn: (i) Trợ cấp không hoàn lại cho doanh nghiệp cam kết thực hiện các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong tương lai; (ii) Hỗ trợ lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp nếu trong kế hoạch sản xuất kinh doanh thực hiện các biện pháp giảm bớt tác động tiêu cực tới môi trường; (iii) Trợ cấp qua thuế dưới hình thức miễn, giảm thuế khi doanh nghiệp áp dụng những biện pháp chống ô nhiễm môi trường theo quy định. Chính phủ các nước OECD (đặc biệt là Pháp, Đức, Italia) thường áp dụng những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trên đối với những ngành có tỷ lệ gây ô nhiễm môi trường cao nhưng doanh nghiệp không có đủ năng lực tài chính để thực hiện các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm. Việc này tạo điều kiện để các doanh nghiệp hỗ mở rộng hơn nữa các hoạt động kinh doanh theo hướng thânh thiện với môi trường.
Hai là, tăng chi đầu tư khuyến khích tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường. Các hoạt động nghiên cứu và phát triển năng lượng xanh được các nước trên thế giới coi là hoạt động trọng tâm trong chiến lược tăng trưởng xanh với việc phát triển các năng lượng mặt trời, năng lượng gió và hệ thống pin mặt trời (Hàn Quốc); lập quỹ thưởng cho các doanh nghiệp tiến hành cải tạo kỹ thuật theo hướng tiết kiệm năng lượng và lập Quỹ chuyên biệt cho việc xử lý chất thải gây ô nhiễm (Trung Quốc). Việc áp dụng các công nghệ tiên tiến như ở Mỹ và Nhật Bản cũng giúp giảm thiểu lượng khí thải carbon và ô nhiễm môi trường ở những nước này.
Tại Hàn Quốc, Chính phủ đã thông qua kế hoạch đầu tư 5.000 tỷ won (4,3 tỷ USD) vào năm 2008 để phát triển lĩnh vực năng lượng xanh đến năm 2012. Đây được xem là một phần trong chiến lược trọng điểm của Tổng thống Lee Myung-bak vốn được gọi là "Kế hoạch tăng trưởng xanh, ít carbon" nhằm đưa kinh tế Hàn Quốc phát triển theo hướng thân thiện với môi trường. Theo quyết định của Chính phủ Hàn Quốc, từ 2008 đến năm 2012, khoản tiền trên sẽ được chi cho việc nghiên cứu và phát triển năng lượng xanh như: năng lượng mặt trời, năng lượng gió và hệ thống pin mặt trời. Trong khi đó, tại Trung Quốc, tháng 6/2011, Ủy ban cải cách phát triển Trung Quốc và Bộ Tài chính Trung Quốc đã có thông báo về việc thành lập các quỹ thưởng chuyên biệt có nguồn từ ngân sách nhà nước để thưởng cho các doanh nghiệp tiến hành cải tạo kỹ thuật theo hướng tiết kiệm năng lượng, quỹ này là sự đổi mới khi thực hiện trên tinh thần thưởng thay cho hỗ trợ tài chính. Ngoài ra, Trung Quốc cũng thực hiện một số biện pháp khác như: hỗ trợ tài chính cho người tiêu dùng khi lựa chọn sử dụng các sản phẩm tiết kiệm năng lượng (2009); thành lập Quỹ chuyên biệt cho việc xử lý chất thải gây ô nhiễm (2007). Chính phủ Trung Quốc cũng thực hiện các chính sách trợ cấp nhằm khuyến khích phát triển nguồn năng lượng tái sinh thông qua các chương trình, dự án quốc gia như: Tài trợ từ ngân sách nhà nước cho dự án “Mặt trời vàng” thực hiện trong giai đoạn 2009-2011; Quỹ hỗ trợ tài chính cho việc mở rộng tiêu chuẩn tiết kiệm năng lượng và sử dụng nguồn năng lượng mới đối với xe ôtô.
Ba là, tăng chi cho trợ cấp, các chương trình quốc gia thực hiện hỗ trợ tăng trưởng xanh như trợ cấp việc làm, tạo ra việc làm trực tiếp, các chương trình giáo dục, đào tạo… ưu tiên cho các chương trình liên quan đến giáo dục và đào tạo thay vì trợ cấp trong các khu vực tư nhân hay tạo việc làm trực tiếp trong khu vực công. Theo kết quả khảo sát của OECD cho thấy rằng đa phần các quốc gia đều chọn hình thức đào tạo và giáo dục (Mỹ, Úc, Áo, Bỉ, Canada, Séc, Hungary, Slovenia, Thổ Nhĩ Kỳ, Hàn Quốc) làm biện pháp thực hiện liên quan đến tăng trưởng xanh, và cũng có một số nước sử dụng hình thức trợ cấp việc làm (Úc, Bỉ, Séc, Hy Lạp, Hungary).
Quan sát việc hỗ trợ tăng trưởng xanh tại các quốc gia cho thấy, trợ cấp và chính sách hỗ trợ công nghệ là những công cụ chi tiêu tiềm năng hỗ trợ cho chiến lược tăng trưởng xanh. Mặc dù trợ cấp đòi hỏi chi phí ngân sách lớn, nhưng trợ cấp khuyến khích chuyển đổi sang các hoạt động xanh thường được sử dụng nhiều hơn các công cụ định giá bởi lẽ nó tác động trực tiếp đến hoạt động của sản xuất của doanh nghiệp và hành vi mua mua của người tiêu dùng, trong đó các công cụ định giá tác động gián tiếp thông qua việc thay đổi về giá bán do tăng hoặc giảm chi phí (tăng hoặc giảm thuế) cho các doanh nghiệp.
Thuế và phí môi trường
Đây là biện pháp được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng, chính sách này một mặt khuyến khích người gây ô nhiễm môi trường giảm lượng chất thải ra môi trường thông qua việc đưa chi phí sử dụng môi trường vào giá thành sản phẩm theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền và người sử dụng phải trả tiền. Mặt khác nó còn làm tăng nguồn thu ngân sách nhà nước, ước tính thu nhập từ nhóm thuế/phí này trung bình chiếm khoảng 5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và dao động từ 3% - 13% GDP tùy thuộc vào từng quốc gia đây là cơ sở để các nước có thể triển khai các hoạt động hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và cho các hoạt động nghiên cứu và hỗ trợ khác.
Có nhiều loại thuế đang được các nước áp dụng như thuế carbon, phí ô nhiễm nước, phí rác thải, phí gây ồn, phí sử dụng môi trường, phí gây ồn. Các hình thức cụ thể được áp dụng tại các nước được thể hiện trong bảng 1 dưới đây:
Bảng 1: Các loại thuế, phí và lệ phí môi trường tại các quốc gia trên thế giới
Quốc gia |
Thuế carbon |
Phí ô nhiễm nước |
Phí rác thải |
Phí gây ồn |
Phí sử dụng môi trường |
Thuế mua bán, sử dụng xe cơ giới |
Thuế bao bì và thuế xử lý bao bì |
Thuế sử dụng hóa chất |
Mỹ |
+ |
|
+ |
+ |
+ |
+ |
|
|
Anh |
+ |
|
|
+ |
+ |
|
|
|
Pháp |
+ |
+ |
|
+ |
+ |
|
|
|
Bỉ |
|
|
+ |
|
+ |
|
|
+ |
Nhật Bản |
+ |
|
|
+ |
+ |
|
|
|
Hàn Quốc |
|
|
|
|
|
|
+ |
|
Trung Quốc |
|
|
|
|
|
+ |
+ |
+ |
(Nguồn: OECD)
Thứ nhất, thuế carbon. Đây là công cụ mà các Chính phủ, các nhà kinh tế, và nhà hoạch định chính sách quan tâm trong quá trình hướng đến tăng trưởng xanh. Thuế về năng lượng và khí phát thải nhà kính có nguồn thu tiềm năng nhất trong các loại thuế liên quan đến môi trường và có khả năng tiếp tục tăng lên trong tương lai. Dự báo vào năm 2020, với mức giá của mỗi tấn khí carbon là 50 USD, doanh thu mang lại chiếm 1-3% GDP và có thể tăng hơn phụ thuộc vào điều kiện riêng của mỗi quốc gia
Bảng 2: Doanh thu tài chính tiềm năng từ thuế về khí carbon[1]
Giá của 1 tấn khí CO2 |
EU27 và EFTA |
Nhật Bản và Hàn Quốc |
Hoa Kỳ |
10 USD |
|
0,2 |
0,4 |
25 USD |
0,7 |
0,5 |
1,0 |
50 USD |
1,1 |
1,0 |
1,7 |
100 USD |
1,7 |
1,7 |
2,9 |
Thứ hai, thuế đối với việc mua/bán và sử dụng xe cơ giới. Việc áp dụng loại thuế này có ở nhiều nước (Trung Quốc, Áo, Mỹ, Canada…). Điều này có thể định hướng đến mục đích điều tiết tiêu dùng các loại xe cơ giới và huy động nguồn thu cho ngân sách. Thuế đối với việc bán và đăng ký xe chỉ tính một lần thường được phân biệt bởi trọng lượng hoặc kích cỡ động cơ của ô tô hay xe tải. Ở Áo, Mỹ và Canada, thuế bán xe dựa vào tiêu chí môi trường, ví dụ như lượng khí thải và nhiên liệu sử dụng. Mỹ tính mức thuế rất khác nhau, dao động từ mức 1000 đến 7700 USD đối với việc bán xe cơ giới không có hiệu quả về năng lượng, dựa trên từng chặng đường mà xe đó có thể đi trên một Galông. Trong khi đó, ở Trung Quốc, thuế mua xe cơ giới áp dụng đối với các cá nhân, đơn vị mua xe trong nước và mức thuế phải nộp được tính theo giá của xe cơ giới. Ngoài ra, để điều tiết thu nhập, khống chế việc sử dụng và tiêu thụ tàu thuyền và xe công bằng hơn, kể từ ngày 25/10/2010 thuế sử dụng tàu thuyền và xe cơ giới của Trung Quốc được chia thành 7 mức (từ 60 – 5400 NDT) dựa theo thông số động cơ.
Thứ ba, thuế bao bì và thuế đối với xử lý chất thải từ bao bì. Nhiều nước sử dụng thuế đối với bao bì nhằm giảm việc sử dụng bao bì và rác thải từ bao bì (Bỉ, Đan Mạch, Na Uy, Hàn Quốc); hoặc quy định các mức thuế suất khác nhau nhằm khuyến khích việc tái sử dụng và tái chế lại nguyên liệu đóng gói (Na Uy, Phần Lan). Đan Mạch, Hàn Quốc và Na Uy cũng đánh thuế vào các thùng chở hàng khác, với những mức thuế suất khác nhau cho các loại nguyên liệu được dùng trong các thùng. Mức thuế suất khác nhau có thể khuyến khích việc tái sử dụng và tái chế lại nguyên liệu đóng gói, ví dụ tại Na Uy, chỉ những thùng đựng đồ uống không thể thay thế mới phải chịu thuế, và tại Phần Lan mức thuế suất phụ thuộc vào loại thùng có thể tái chế hay không.
Ngoài ra, các nước cũng có chính sách thuế điều chỉnh việc xử lý chất thải cuối cùng đối với bao bì hoặc các sản phẩm cụ thể có thể gây ra những vấn đề liên quan đến chất thải. Tại Áo, chính phủ áp dụng các mức thuế suất khác nhau đối với bãi chôn lấp tùy thuộc vào hiệu quả của các phương tiện theo 3 mức: 58 EUR/tấn chất thải (loại không hiệu quả), 29 EUR/tấn chất thải (loại bình thường), hoặc 15 EUR/tấn chất thải (loại hiệu quả). Trong khi đó, tại Đan Mạch, chính phủ áp dụng các mức thuế khác nhau giữa việc đốt và chôn lấp chất thải; chất thải được chôn lấp (50 EUR/tấn chất thải) sẽ chịu mức phí cao hơn chất thải bị đốt (45 EUR/tấn chất thải), chất thải được gửi tại cơ sở phục hồi năng lượng sẽ chịu mức thuế thấp hơn (38 EUR/tấn chất thải).
Thứ tư, thuế sử dụng hóa chất và làm hao mòn tài nguyên thiên nhiên. Tại các nước Bỉ, Canada, Đan Mạch, Phần Lan và Na Uy, Chính phủ đã đánh thuế đối với việc sử dụng thuốc trừ sâu. Hà Lan có một hệ thống kế toán khoáng sản, trong đó, trên 10 kg phốt phát bị dư đối với 1 ha sẽ bị đánh thuế là 4,54 EUR/kg và Nitơ bị dư sẽ bị đánh thuế 0,68 EUR/ha. Thụy Điển đánh thuế đối với phân bón, với mức thuế suất là 0,2 EUR/ 1 kg nitơ và 3,4 EUR/gam catmi. Mỹ tính thuế đối với phân bón với các mức thuế khác nhau từ 0,9 EUR đến 3,7 EUR trung bình 1 tấn sản phẩm. Trong khi tại Trung Quốc, thuế được đánh đối với tất cả các sản phẩm tài nguyên, đồng thời mở rộng việc đánh thuế trên doanh thu số bán dầu thô và khí tự nhiên từ một số khu vực ra phạm vi cả nước. Thuế đối với dầu thô và khí tự nhiên sẽ là 5 – 10% trong tổng doanh số bán. Trung bình một thùng dầu thô bán với giá 80 USD thì thuế tài nguyên là 4 USD/thùng, gấp 6-13 lần so với mức thuế trước khi có cải cách này. Đối với than cốc, thuế sẽ ở mức 8 - 20 NDT/tấn, và thuế đối với đất hiếm là 0,4 – 60 NDT/tấn. Thuế áp dụng đối với than đá giữ nguyên ở mức 0,3 – 5 NDT/tấn.
Phát triển thị trường tài chính xanh
Theo báo cáo của Cơ quan năng lượng lượng quốc tế (IEA) và Báo cáo kinh tế xanh của UNEP, để giảm ½ lượng tiêu thụ năng lượng trên toàn thế giới tới năm 2050 cần một lượng đầu tư bổ sung hàng năm ước tính lên tới 1 - 2,5% GDP toàn thế giới. Việc xanh hóa thị trường tài chính hiện hành sẽ cho phép các quốc gia thuận lợi hơn trong việc huy động nguồn vốn cần thiết để thực hiện các chiến lược tăng trưởng xanh của mình.
Hiện nay một số quốc gia đã tiến hành triển khai chiến lược xanh hóa thị trường tài chính theo một số hình thức khác nhau: Trung Quốc xây dựng hệ thống tài chính xanh. Theo đó, nước này đang chuyển đổi từ nền kinh tế chỉ tập trung vào tăng trưởng đã tồn tại từ 30 năm nay dẫn tới những tổn hại nghiêm trọng cho môi trường sang một mô hình tăng trưởng xanh lành mạnh, đảm bảo phát triển hài hòa và toàn diện hơn. Theo tính toán của chính phủ Trung Quốc, dự kiến trong vòng 5 năm tới Trung Quốc sẽ cần tới 320 tỷ USD hàng năm cho đầu tư xanh nhằm đáp ứng các mục tiêu bảo vệ môi trường của nước này trong khi nguồn ngân sách nhà nước hiện chỉ có thể đáp ứng 15% nhu cầu, bởi vậy hệ thống tài chính sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc luân chuyển vốn và huy động nguồn vốn cá nhân đầu tư vào các lĩnh vực xanh. Chương trình xanh hóa hệ thống tài chính Trung Quốc bao gồm 14 khuyến nghị chính thức kèm theo 16 phụ lục cung cấp những phân tích chi tiết về cơ sở lý luận về tài chính xanh. Nội dung của chương trình tập trung vào các vấn đề lớn như sau: (1) xây dựng một hệ thống tài chính xanh hiệu quả sử dụng nhiều công cụ tài chính khác nhau với các khoản cho vay xanh, các quỹ đầu tư xanh, bảo hiểm xanh, v.v..; (2) xây dựng những quy định và chính sách hỗ trợ giảm chi phí đối với các dự án xanh và cải thiện cơ chế cấp vốn cho các dự án xanh; (3) phát triển các tổ chức tài chính chuyên cho vay và đầu tư xanh (những tổ chức mới này cần có sự đầu tư một phần từ phía chính phủ để thể hiện cho thị trường tài chính thấy được cam kết của chính phủ khuyến khích đầu tư xanh và sẽ giảm bớt sự e ngại của khu vực tư nhân đối với những rủi ro khi đầu tư vào các dự án xanh)…
Trong khi đó, một số nước khác chọn hình thức phát hành trái phiếu xanh. Trái phiếu xanh là một hình thức trái phiếu được phát hành gắn liền với những khoản đầu tư thân thiện với môi trường. Ban đầu trái phiếu chủ yếu được phát hành từ các tổ chức tài chính quốc tế và các tổ chức tài chính do chính phủ bảo lãnh bao gồm cả Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Hàn Quốc. Các nhà đầu tư bao gồm các nhà đầu tư tổ chức và một số cá nhân. Kỳ hạn trái phiếu trung bình là từ 5 đến 6 năm. Tổ chức phát hành chủ yếu là các định chế tài chính quốc tế như WB, Công ty tài chính quốc tế (IFC). Hình thức này thu hút các nhà đầu tư do có giá trị xã hội vì hỗ trợ cho phát triển bền vững và tăng trưởng xanh; kỳ hạn tương đối ngắn, có tính thanh khoản cao (phần lớn trái phiếu xanh có kỳ hạn từ 1 - 7 năm và có thể mua bán dễ dàng trên thị trường thứ cấp); đồng thời nhiều trái phiếu xanh được miễn thuế và do vậy có mức lợi nhuận cao và độ rủi ro tương đối thấp.
Ngoài ra, mô hình Ngân hàng xanh cũng được áp dụng thành công tại một số quốc gia. Năm 2010, Chính phủ Anh tuyên bố kế hoạch thành lập Ngân hàng đầu tư xanh chuyên đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng xanh mà thị trường không thể tài trợ được do lo ngại những rủi ro đi kèm. Ngân hàng đầu tư xanh của Anh đã đi vào hoạt động năm 2012 và là một ngân hàng chính sách thuộc sở hữu của Chính phủ Anh. Chính phủ Anh cung cấp nguồn vốn điều lệ cho ngân hàng trị giá 3,8 tỷ bảng và là một thành viên trong Hội đồng quản trị. Tuy nhiên hoạt động của Ngân hàng là độc lập và không chịu sự kiểm soát của Chính phủ. Ngân hàng đầu tư xanh chủ yếu tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng xanh. Thông qua việc thành lập và hoạt động của Ngân hàng đầu tư xanh, Chính phủ Anh hy vọng có thể khuyến khích nguồn vốn tư nhân cho các dự án xanh nhằm gia tăng quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh. Những lĩnh vực đầu tư chủ yếu của ngân hàng bao gồm năng lượng tái tạo, giao thông, xử lý rác và nguồn nước, v.v.. Ngân hàng giành ưu tiên cho các dự án cơ sở hạ tầng xanh có rủi ro thấp, giá trị thương mại cao.
Việc xanh hóa hệ thống tài chính được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm nhằm khắc phục và hạn chế những tác động tiêu cực của phát triển kinh tế tới môi trường, cải thiện môi trường. Việt Nam bước đầu hướng tới sự phát triển bền vững và kinh nghiệm rút ra để thực hiện được những mục tiêu tăng trưởng xanh của nền kinh tế, trong đó quan trọng là vai trò dẫn dắt của chính phủ kiến tạo thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, chính phủ xây dựng chiến lược, tạo dựng thị trường và tạo điều kiện cho phát triển kinh tế bền vững.
Thứ hai, chính phủ dự báo, chia sẻ và hướng dẫn trong phát triển kinh tế bền vững.
Thứ ba, chính phủ mang tinh thần doanh nghiệp trong khuyến khích phát triển kinh tế bền vững.
-
Khuyến nghị cho Việt Nam
Trong chiến lược phát triển quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 -2020 và tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam đã xác định yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược là phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững với các mục tiêu cụ thể là tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng xanh hóa các ngành hiện có và khuyến khích phát triển các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên với giá trị gia tăng cao; nghiên cứu, ứng dụng công nghệ tiên tiến nhằm sử dụng hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên, giảm cường độ phát thải khí nhà kính, góp phần ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu; nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng lối sống thân thiện với môi trường thông qua tạo việc làm từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ xanh. Trên cơ sở đánh giá những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong quá trình hướng đến tăng trưởng xanh, kết hợp với bài học kinh nghiệm về sử dụng chính sách tài chính nhằm hỗ trợ tăng trưởng xanh ở một số nước trên thế giới, có thể gợi ý một số khuyến nghị chính sách cho Việt Nam như sau:
Thứ nhất, đánh giá, rà soát lại các quy định của pháp luật đảm bảo sự phù hợp và tác động ngăn ngừa, răn đe. Hiện nay, Việt Nam đã có Thuế bảo vệ môi trường, Thuế tài nguyên, Nghị định thu phí nước thải, Nghị định chi trả dịch vụ môi trường, Nghị định bồi hoàn thiệt hại môi trường, v.v.. Tuy nhiên, những văn bản này còn có nhiều bất cập và chồng chéo, nhất là Luật Thuế bảo vệ môi trường và Thuế tài nguyên. So với các nước khác, thuế suất tài nguyên của Việt Nam còn thấp, nhất là đối với các kim loại quý hiếm nên cần phải điều chỉnh tăng. Thêm vào đó Việt Nam cần lựa chọn căn cứ tính mức phí bảo vệ môi trường một cách đầy đủ hơn, đảm bảo mức phí này phải cao hơn chi phí vận hành hệ thống xử lý ô nhiễm môi trường. Có như vậy mới khuyến khích doanh nghiệp triển khai các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đồng thời, cần xem xét áp dụng những chế tài xử phạt đối với những hành vi vi phạm quy định bảo vệ môi trường từ các doanh nghiệp và từ phía người tiêu dùng. Các doanh nghiệp có xu hướng chạy theo lợi nhuận mà cố tình bỏ qua những tác hại đối với môi trường, trong khi đó hiện nay chưa có chế tài đủ mạnh để ngăn chặn những hành vi bất lợi cho môi trường.
Thứ hai, công tác hoạch định chính sách tài khóa (thuế và chi ngân sách) cần phù hợp với chiến lược tăng trưởng xanh của quốc gia. Định hướng chính sách thuế khuyến khích sử dụng sản phẩm ít ô nhiễm môi trường; đồng thời kết hợp với việc hạn chế các biện pháp trợ giá, trợ cấp nhiên liệu hoá thạch (như xăng, dầu hoả, dầu mazut…) không cần thiết. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu tính khả thi của các nguồn nhiên liệu thay thế, như nhiên liệu sinh học.
Thứ ba, cần xây dựng những chính sách ưu đãi, nhất là ưu đãi về thuế, phí, cho vay tài chính phù hợp cho khu vực doanh nghiệp nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ theo hướng công nghệ xanh, việc làm xanh, tạo ra thế mạnh trong cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Điều này là cần thiết vì các chi phí xây dựng, xử lý hệ thống giảm thiểu ô nhiễm môi trường hoặc để sản xuất sạch thường khá lớn, gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp muốn triển khai những hệ thống này, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn chiếm đa số trong nền kinh tế Việt Nam. Mặt khác, các ưu đãi về thuế hiện nay chưa đủ mạnh để khuyến khích doanh nghiệp giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Thứ tư, tăng chi ngân sách cho đầu tư phát triển công nghệ sạch và khuyến khích hỗ trợ các ngành sản xuất kinh doanh sử dụng công nghệ và năng lượng sạch. Dựa vào tiêu chí quốc tế như đã dự tính của UNEP về đầu tư công toàn cầu 2% GDP cho phát triển kinh tế xanh, tuy nhiên cần có đánh giá tổng kết mức độ đầu tư cho môi trường ở Việt Nam trong thời gian qua cũng như căn cứ vào chiến lược phát triển quốc gia trong thời gian tới để đưa mức đầu tư phù hợp.
Khoản chi trên được Chính phủ sử dụng để hỗ trợ nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sản xuất tiết kiệm tài nguyên, tiêu hao ít năng lượng, đồng thời đưa ra các chương trình hỗ trợ nhằm thúc đẩy từng khâu trong chu kỳ công nghệ, bao gồm cả khâu nghiên cứu và phát triển (R&D), thương mại hoá và tuyên truyền. Ngoài ra, cần khuyến khích các công ty đầu tư trực tiếp vào phát triển và triển khai những công nghệ mới, giảm công nghệ lạc hậu đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng công nghệ sạch thông qua các kênh như: chính sách thuế, văn bản pháp lý, thủ tục, cơ chế đầu tư thuận lợi.
Ngoài ra, cần có giải pháp để khuyến khích và thay đổi hành vi tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường. Với việc thực hiện đồng bộ, quyết liệt và linh hoạt nhiều giải pháp trên, trong thời gian tới Việt Nam mới có thể hoàn thành mục tiêu về tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kyoto University Japan, National Institute for Environmental Studies (2010), Primilimery study on sustainable low carbon development towards 2030 in Vietnam.
2. Ministry of Government Legislation, Korea (2010), Framework Act for Low Carbon, Green Growth.
3. UNTACD (2014), The World Investment Report.
4. UNEP (2011), Towards a Green Economy: Pathways to Sustainable Development and Poverty Eradication.
5. Thủ tướng Chính phủ (2012), Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 ban hành theo Quyết định số 1393/2012/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2012.
6. Thủ tướng Chính phủ (2014), Phê duyệt kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020 ban hành theo Quyết định số 403/2014/QĐ-TTg ngày 20 tháng 3 năm 2014.
[1] Hay hệ thống kinh doanh khí phát thải