Trang chủ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP DỆT MAY HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP DẠY HỌC TRỰC TUYẾN HIỆU QUẢ

Ngày đăng: 02:35 - 14/02/2022 Lượt xem: 5.772
  Giảng viên: Đặng Thị Thúy Thành
Trường Đại học Công nghiệp Dệt May Hà Nội
 
Tóm tắt: Học trực tuyến là hình thức học đã được áp dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore...  giúp người học thích ứng với môi trường làm việc của thế kỷ 21. Tại Việt Nam, học tập trực tuyến không chỉ là giải pháp tình thế để ứng phó với tình hình dịch bệnh COVID-19 mà được đánh giá là một xu hướng tất yếu, lâu dài. Bài viết này nghiên cứu về một số phương pháp dạy học và kiến nghị giải pháp dạy học trực tuyến hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trực tuyến tại trường Đại học Công nghiệp Dệt May Hà Nội.

Từ khóa: Phương pháp dạy học, dạy trực tuyến, học trực tuyến

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trọng tâm của giảng dạy đại học là đào tạo được đội ngũ sinh viên (SV) có năng lực học tập suốt đời. Khả năng tự học, tự nghiên cứu của SV sau khi tốt nghiệp là thước đo hiệu quả của quá trình giảng dạy. Để đạt được mục tiêu như vậy, bản thân giảng viên phải là người khai sáng. Năm 2020 và 2021, dịch bệnh COVID-19 diễn ra phức tạp trên toàn thế giới đã tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có hoạt động giáo dục tại các nhà trường. Các trường học phải tạm thời đóng cửa. Tại Việt Nam, thực hiện chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, với quan điểm học sinh không đến trường nhưng không ngừng việc học, các nhà trường đã tiến hành dạy học trực tuyến cho học sinh. Trong bối cảnh đó, trường Đại học Công nghiệp Dệt May Hà Nội đã tổ chức dạy học trực tuyến cho SV  nhằm đảm bảo tính liên tục của quá trình đào tạo đồng thời thích nghi với yêu cầu, đòi hỏi của tình hình thực tiễn. Để chuyển đổi hình thức học tập từ trực tiếp tại giảng đường sang trực tuyến thông qua các phần mềm ứng dụng dạy học thì người giảng viên phải chủ động, tích cực trong việc tìm ra phương pháp giảng dạy đại học hiệu quả nhất để ứng dụng vào hoạt động dạy học. Việc giảng viên có khả năng thích nghi với môi trường dạy học trực tuyến là tấm gương cho SV về năng lực tự học trong hoạt động thực tiễn nghề nghiệp.
Bản chất của các phương pháp dạy học không áp dụng bất biến cho mọi cấp học, mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng SV mà phải biến đổi cho phù hợp với trình độ nhận thức, tâm lý của SV, nội dung giảng dạy và hoàn cảnh học tập. Người giảng viên vững vàng về chuyên môn và có nghiệp vụ sư phạm tốt có thể linh hoạt biến đổi các phương pháp dạy học nhằm khơi dậy tính sáng tạo, động cơ học tập và tiềm năng phát triển của SV. Giảng viên kết hợp các phương pháp dạy học trực tiếp và vận dụng sáng tạo vào môi trường học tập trực tuyến nhằm phát huy những điểm mạnh và hạn chế những tồn tại của phương pháp dạy học. Việc lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như nội dung giảng dạy, đối tượng giảng dạy, môi trường giảng dạy, hình thức học tập….
Tại trường Đại học Công nghiệp Dệt May Hà Nội, việc áp dụng phương pháp dạy học trực tuyến cho SV cũng gặp nhiều khó khăn. Một trong những thách thức đặt ra là làm thế nào để giảng viên có thể vận dụng phương pháp dạy học trực tuyến cho hiệu quả. Với mong muốn góp phần khắc phục khó khăn trên, trong bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu về một số phương pháp dạy học và kiến nghị giải pháp dạy và học trực tuyến hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng đào tạo tại Nhà trường.

2. KHÁI NIỆM PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRỰC TUYẾN

Phương pháp dạy học (PPDH) là những hình thức và cách thức hoạt động của giáo viên và học sinh trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt được mục đích dạy học [2, tr 184]
Giáo dục trực tuyến là áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động dạy học. Người học có thể thông qua mạng internet để kết nối với người học. Có nhiều hình thức khác nhau trong việc giảng dạy trực tuyến như: có thể tương tác thông qua ứng dụng giảng dạy trực tuyến, kết nối với người học thông qua các ứng dụng quản lý lớp học hoặc ghi lại bài giảng và lưu trữ bài giảng ở kho dữ liệu để người học sử dụng kho dữ liệu đó nhiều lần. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến hình thức giảng dạy thông qua các phần mềm trực tuyến.
PPDH là một khái niệm khoa học phức tạp, có nhiều cách hiểu khác nhau. Dù định nghĩa theo cách nào thì PPDH cũng được hiểu là cách thức phối hợp thống nhất giữa giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của giáo viên nhằm thực hiện tối ưu mục tiêu và nhiệm vụ dạy học [2, tr 184]
Đối với giảng dạy trực tuyến, do điều kiện dạy học thay đổi nên PPDH cần được thay đổi cho phù hợp. Dạy học kết hợp sử dụng công nghệ thông tin nhằm thúc đẩy quá trình học tập bên ngoài lớp học là xu thế phổ biến trên thế giới, đặc biệt là giáo dục ở bậc đại học.

3. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRONG HỌC TẬP TRỰC TUYẾN

3.1. Phương pháp diễn giảng
Đây là phương pháp thông dụng nhất nhưng để phương pháp này đạt được hiệu quả giảng dạy thì người giảng viên cần phải sử dụng ngôn ngữ diễn giảng phù hợp với trình độ của SV. Giảng viên phải chú ý đến mở đầu và tóm tắt bài giảng. Tốc độ diễn giảng phù hợp cần nhấn mạnh vào trọng tâm của kiến thức truyền đạt. Trong phương pháp diễn giảng, sự tương tác giữa giảng viên và SV là rất quan trọng bởi SV phải nhìn thấy và nghe thấy giảng viên rõ ràng. Bản thân giảng viên cũng cần nhạy bén với thái độ và sự tiếp thu, lĩnh hội tri thức của SV.
Giảng viên sử dụng nhiều phương pháp diễn giảng trong bài giảng dễ làm cho giờ giảng chỉ có truyền đạt thông tin một chiều, thụ động, không phát huy được tính tích cực, chủ động của SV. Tuy nhiên, đối với các học phần đại cương do khoa Khoa học cơ bản giảng dạy, các khái niệm, hiện tượng, nguyên lý, quy luật của quá trình vận động và phát triển của thế giới cần được truyền tải một cách chính xác đến SV nên việc sử dụng phương pháp diễn giảng đối với các nội dung này là lựa chọn phù hợp nhất.

* Nhược điểm của việc vận dụng phương pháp diễn giảng trong giảng dạy trực tuyến:

Một là, giảng viên khó nắm bắt được thái độ tiếp thu bài giảng của SV do môi trường học tập trực tuyến hạn chế khả năng tương tác giữa giảng viên và SV.

Hai là, tốc độ ngôn ngữ diễn giảng của giảng viên có thể sẽ không được điều chỉnh kịp thời, phù hợp với đối tượng SV do giảng viên thiếu thông tin phản hồi về đối tượng SV mình đang giảng dạy. So sánh với việc giảng dạy trực tiếp thì giảng viên dễ dàng điều chỉnh tốc độ ngôn ngữ diễn giảng do việc tương tác trực tiếp sẽ giúp giảng viên dễ dàng nắm bắt được tâm lý học tập và khả năng nhận thức của SV.
Hai nhược điểm này đều bắt nguồn từ môi trường giảng dạy trực tuyến hạn chế khả năng tương tác của giảng viên và SV trong quá trình lên lớp.

3.2. Phương pháp thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm là một sự trao đổi ý tưởng, quan điểm nhận thức giữa các SV với nhau và giữa SV với giảng viên để làm rõ và làm giàu sự hiểu biết phù hợp với hoạt động đào tạo [1, tr 266]
Tham gia vào quá trình thảo luận nhóm giúp giảng viên có khả năng đánh giá nhận thức và thái độ tiếp thu bài giảng của SV để kịp thời điều chỉnh phương pháp giảng dạy của mình cho phù hợp nhằm đạt được hiệu quả học tập cao nhất.
SV tham gia vào quá trình thảo luận nhóm một cách chủ động, tích cực. Phương pháp này có tác dụng giúp SV trao đổi, tranh luận, nêu quan điểm về một vấn đề học tập, hình thành kỹ năng làm việc nhóm và giao tiếp trong công việc. Thảo luận nhóm cũng giúp SV hiểu được khả năng nhận thức của bản thân để điều chỉnh cho phù hợp.

* Nhược điểm của vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào giảng dạy trực tuyến:

Một là, giảng viên sẽ tốn nhiều thời gian cho hoạt động tổ chức thảo luận nhóm do khi các sinh viên đã tạo thành 1 nhóm (Breakout Room- Thực hiện chia nhóm thảo luận trên phần mềm trực tuyến Zoom) thì giảng viên muốn thực hiện vai trò trọng tài, hướng dẫn, cố vấn chỉ có thể thực hiện với từng nhóm. Thời gian vào một phòng breakout room từ 20-30 giây. Giả định giảng viên chia lớp thành 6 nhóm, giảng viên sẽ mất thời gian từ 2 đến 3 phút chỉ để ra, vào các nhóm. Thời gian này sẽ nhanh hoặc chậm tùy thuộc và tốc độ đường truyền mạng.

Hai là, một số SV chưa quen với phương pháp thảo luận nhóm trong học tập trực tuyến nên tâm lý còn e dè, thiếu chủ động, tích cực trong học tập.

Ba là, giảng viên khó quan sát và theo dõi các nhóm hoạt động có tích cực, hiệu quả hay không. Ví dụ như trưởng nhóm có thực hiện tốt vai trò điều hành của mình hay không? Thư ký nhóm có tổng hợp ghi chép ý kiến thảo luận của các thành viên nhóm hay không? Mức độ tham gia của các thành viên nhóm vào hoạt động thảo luận như thế nào? Tiến trình thực hiện hoạt động thảo luận nhóm đến đâu? Nội dung thảo luận bám sát nội dung đào tạo không? Việc quan sát theo dõi kịp thời giúp giảng viên kịp thời có những hướng dẫn mang tính định hướng, trọng tài.

Bốn là, công cụ, phương tiện phục vụ thảo luận nhóm thiếu đa dạng. Ví dụ: Thảo luận trên lớp học trực tiếp sinh viên có thể sử dụng giấy các kích cỡ, bảng, ghim…

3.3. Phương pháp công não (động não)
Công não là phương pháp phát triển càng nhiều ý tưởng về một chủ đề thì càng tốt hoặc xây dựng các kiến thức xung quan chủ đề được giảng viên đề xuất [2, tr 184]. Phương pháp này dùng Mind Map là công cụ hỗ trợ để phát triển nhiều giải pháp sáng tạo cho một vấn đề. Nó hoạt động bằng cách nêu ra tất cả các ý tưởng xung quanh một vấn đề, để từ đó rút ra được những giải pháp mình cho là có khả thi nhất.
Nguyên tắc sử dụng: Tất cả mọi ý tưởng đều phải được tôn trọng, SV không được phán xét ý tưởng trong suốt thời gian công não.Tất cả các ý tưởng đều được ghi lại để SV có thể nhìn thấy giúp sinh SV hệ ý tưởng của mình với ý tưởng của SV khác đã được trình bày. Phương pháp này có khả năng kiểm tra, đánh giá mức độ tiếp thu kiến thức của nhiều SV trong một thời gian ngắn. Hiệu ứng cộng hưởng giúp phát huy tối đa sức mạnh của trí tuệ tập thể.

* Nhược điểm của sử dụng phương pháp này trong giảng dạy trực tuyến:
Việc ghi chép lại các ý tưởng gặp khó khăn do thiếu các công cụ hỗ trợ trực tiếp như bảng, thẻ, giấy A0. Tuy nhiên, giảng viên có thể ghi chép các ý tưởng trên màn hình máy tính. Tốc độ ghi chép của giảng viên có thể ảnh hưởng đến thời gian sử dụng phương pháp

3.4. Phương pháp “Sơ đồ tư duy”
Sơ đồ tư duy là một sơ đồ nhằm trình bày một cách rõ ràng các ý tưởng về một chủ đề học tập. Sơ đồ tư duy có thể thực hiện bởi nhiều công cụ khác nhau như viết trên giấy, trong vở, trên bảng hay trên máy tính. Sơ đồ tư duy áp dụng hiệu quả khi cần tóm tắt nội dung, ôn tập, trình bày tổng quan về một chủ đề hay ghi chép khi nghe giảng. SV học được cách chuẩn bị ý tưởng và trình tự trình bày một bài báo, một bài nói chuyện.

Richard Felder, trong bài nghiên cứu về phương thức và mức độ hấp thụ kiến thức của mình đã chỉ ra rằng: “Chúng ta tiếp thu các kiến thức dưới dạng hình ảnh, sơ đồ trực quan nhanh hơn 60.000 lần so với những kiến thức dưới dạng chữ”. Phương pháp “sơ đồ tư duy” sử dụng tốt trong học tập trực tuyến giúp SV sắp xếp các ý tưởng chủ đề, nội dung bài giảng, bài học một cách logic, tăng cường khả năng ghi nhớ và giúp phát triển tư duy logic cho sinh viên. Phương pháp “sơ đồ tư duy” cũng giúp giảng viên đánh giá được khả năng khái quát, phân tích, tổng hợp của SV về các chủ đề học tập. Tuy nhiên, chỉ nên sử dụng phương pháp này để hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau giờ học, hệ thống hóa bài vở ôn tập.

3.5. Phương pháp nghiên cứu tình huống
Phương pháp này phù hợp khi yêu cầu SV phân tích, tổng hợp, vận dụng, đánh giá và định hướng giải quyết một tình huống. Tình huống cần điển hình (tình huống thường gặp hoặc có thật trong cuộc sống, nội dung tình huống phải liên quan đến chủ đề của bài giảng và nhằm giải quyết những mục tiêu đặt ra trong bài giảng của giảng viên).
Phương pháp này rất phù hợp với việc hình thành các chuẩn đầu ra kiến thức bậc cao cho SV như phân tích, tổng hợp, vận dụng, đánh giá.
Đối với học phần pháp luật giảng viên thường đặt ra các tình huống thực tiễn có tính ứng dụng trong cuộc sống và trong hoạt động nghề nghiệp của SV nhằm tìm ra vấn đề (ví dụ như: Có đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản khi sinh con trong trường hợp cụ thể không? Tính toán được chế độ thai sản khi sinh con trong trường hợp đó) hoặc tình huống nhằm đề xuất các phương án giải quyết vấn đề (Nêu giải pháp cụ thể nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân hoặc của doanh nghiệp?)
Phương pháp đòi hỏi giảng viên phải tốn nhiều thời gian chuẩn bị và liên tục cập nhật các tình huống phù hợp với tình hình thực tiễn nhằm khơi dậy tính chủ động và sự hứng thú tìm tòi của SV; SV cần tích cực, sáng tạo, có khả năng tư duy độc lập mới có thể đưa ra các quyết định, bảo vệ quan điểm của bản thân và so sánh các giải pháp được lựa chọn, từ đó giúp hình thành tư duy sáng tạo của SV.

4. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP DẠY VÀ HỌC TRỰC TUYẾN HIỆU QUẢ

4.1. Tăng cường khả năng tương tác của giảng viên và sinh viên để đảm bảo hiệu quả giảng dạy và học tập trực tuyến
Trong đào tạo trực tuyến, mục tiêu của tương tác giúp giảng viên kiểm soát được SV do một số SV còn thụ động, thiếu tự giác, khả năng tự học hạn chế trong quá trình học tập. Một số SV cần được giảng viên kịp thời nhắc nhở để hoàn thành mục tiêu học tập. Việc giảng dạy và học tập online trên các nền tảng E-learning hay Zoom, Ms. Teams, Google Meets…. Thì sự tương tác giữa giảng viên và SV bị giảm sút nếu giảng viên vẫn áp dụng cách thức tương tác với SV giống như trong học tập trực tiếp.
Moore (1989) đề xuất mô hình gắn kết người học bao gồm 3 loại tương tác là: tương tác của học viên với nội dung, tương tác của học viên với học viên, và tương tác của học viên với giảng viên.
 
Mô hình bộ ba gắn kết người học của Moore (1989)
Sự tương tác tốt tạo ra sự gắn kết giữa SV với giảng viên, SV với SV và với nội dung giảng dạy, qua đó góp phần tạo ra sự gắn kết giữa SV với nhà trường. Các yếu tố gắn kết này tác động lẫn nhau và cùng thúc đẩy các yếu tố còn lại. Người học càng tham gia, càng gắn kết với quá trình học tập thì kết quả học tập và mức độ hài lòng của họ với khóa học và nhà trường càng cao.
Ví dụ: SV có sự gắn kết với nhà trường như SV thường xuyên tra cứu tài liệu thư viện, tham gia tích cực và các hoạt động ngoại khóa dành cho SV như câu lạc bộ, hoạt động đoàn thể… giúp thúc đẩy qúa trình gắn kết tốt hơn của SV với học phần/môn học và ngược lại, giảng viên tạo cho SV sự gắn kết tốt với học phần/môn học giúp SV yêu trường, yêu lớp và có động lực học tập nhằm đạt được kết quả học tập tốt.

Để đạt được sự gắn kết tốt trong giảng dạy và học tập trực tuyến thì tác giả đề xuất bốn giải pháp sau:

Thứ nhất, sử dụng các video clip và giảng viên đã xây dựng về ý nghĩa, tầm quan trọng, tính ứng dụng của học phần trong chương trình đào tạo và trong hoạt động nghề nghiệp giúp SV gắn kết với nội dung học phần tốt hơn. SV thấy được tầm quan trọng, sự liên quan của nội dung học phần với công việc, cuộc sống sau này của bản thân. Giảng viên tiếp tục xây dựng các video hướng dẫn làm bài tập, thảo luận một chủ đề, thực hành một động tác mô phỏng tạo thành kho tư liệu giảng dạy phong phú phục vụ cho dạy và học trực tuyến.

Thứ hai, bài giảng online cần được xây dựng lại, sử dụng các PPDH đại học có điều chỉnh để phù hợp với giảng dạy trực tuyến trong đó chú trọng khắc phục những hạn chế của việc sử dụng PPDH đó trong giảng dạy và học tập trực tuyến. Giảng viên cần chuẩn bị những nội dung, những vấn đề mà SV thực sự quan tâm. Giảm bớt thời lượng cho những nội dung khái quát, tổng quan, tăng thời gian hơn cho các vấn đề cụ thể, thực tiễn.

Thứ ba, xây dựng diễn đàn học tập trực tuyến giúp tăng cường khả năng tương tác và gắn kết giữa giảng viên với SV, SV với SV. Giảng viên có thể trả lời các thắc mắc của SV trên diễn đàn. SV có thể góp ý, nhận xét về bài tập, các chủ đề, quan điểm, ý kiến của SV khác trên diễn đàn học tập. Đối với số giảng viên phải quản lý số lượng SV đông, không có điều kiện để giải đáp mọi tất cả các vấn đề, giảng viên hãy chọn lọc một vài nội dung được quan tâm nhiều nhất để giải đáp và gửi cho SV.

Thứ tư, giảng viên tích cực sử dụng các công cụ trực tuyến để kiểm soát, nhận xét  về tình hình học tập của SV hoặc đánh giá kết quả học tập của SV thông qua các công cụ như email, messenger,… Sự phản hồi của giảng viên đối với bài tập cá nhân, bài tập nhóm cần đúng thời điểm, chi tiết và cụ thể hóa giúp SV tiến bộ trong học tập. Điều này giúp động viên và gia tăng khả năng tương tác, gắn kết của SV với học phần/môn học. Tuy nhiên, giảng viên sẽ tốn nhiều thời gian, sức lực khi phải phụ trách một số lượng SV khá đông.

3.2. Khắc phục những hạn chế của phương pháp dạy học nhằm đảm bảo hiệu quả trong giảng dạy trực tuyến

Đối với phương pháp diễn giảng: Giảng viên tương tác tốt với SV sẽ khắc phục được hạn chế của phương pháp này trong giảng dạy trực tuyến. Giảng viên sẽ kịp thời nắm bắt được thái độ tiếp thu bài giảng và tiến trình nhận thức của SV để kịp thời điều chỉnh tốc độ ngôn ngữ cho phù hợp với từng đối tượng lớp học phần. Khi diễn giảng, giảng viên cần trình bày đúng trọng tâm vấn đề, dùng từ ngữ đơn giản và dễ hiểu nhất, đưa kèm các ví dụ minh họa, tổng kết lại ý chính sau từng phần… Giảng viên có thể sử dụng kết hợp các dạng bài tập củng cố và kiểm tra kiến thức nhằm đánh giá khả năng tiếp thu bài giảng của SV đồng thời làm cho phương pháp diễn giảng bớt khô cứng, một chiều.
Giảng viên yêu cầu SV đọc và tóm tắt tài liệu về bài học mới, trả lời câu hỏi, vận dụng giải quyết tình huống hoặc hoàn thành các phiếu học tập để kiểm tra kết quả đọc hiểu của SV về nội dung bài học. Việc yêu cầu SV làm việc với bài giảng trước giờ học trực tuyến giúp giảng viên có thời gian lắng nghe các báo cáo, trao đổi, chia sẻ về phần chuẩn bị bài của SV. Để đạt được 3 mức độ đầu của thang đo cấp độ tư duy của Bloom (ghi nhớ, thông hiểu, vận dụng), SV sẽ tự học ở nhà thông qua video bài giảng, nghiên cứu tài liệu trên internet dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Thời gian trên lớp, giảng viên và SV cùng làm việc để giúp cho SV đạt được 3 cấp độ nhận thức cao hơn (phân tích, đánh giá, sáng tạo)

Đối với phương pháp thảo luận nhóm: Giảng viên cần hướng dẫn SV cách thức tổ chức, tham gia và thực hiện thảo luận nhóm trên phần mềm giảng dạy. Kết thúc mỗi buổi thảo luận nhóm, giảng viên yêu cầu trưởng nhóm gửi kết quả ghi chép và đánh giá tính chủ động, tích cực của thành viên nhóm trong hoạt động nhóm để giảng viên kịp thời động viên các SV tích cực và nhắc nhở các SV thụ động, thiếu tự giác trong hoạt động thảo luận nhóm.
Giảng viên cần tăng thời gian tương tác, giao tiếp, làm việc với SV không chỉ bó hẹp trong không gian lớp học trực tuyến. Thầy cô tiếp tục hỗ trợ, trao đổi, giải đáp thắc mắc của người học về nội dung thảo luận trên các công cụ tương tác trực tuyến sau giờ học như messenger, nhóm zalo, email….  Việc giao các nhiệm vụ học tập cho SV tự nghiên cứu cần phải có hướng dẫn cụ thể, chi tiết. Có thể gửi kèm các đường link, các trang web để vừa định hướng được nội dung thảo luận, vừa gợi mở giúp SV có những ý tưởng độc đáo, quan điểm sáng tạo về chủ đề/nội dung/tình huống thảo luận.

Đối với phương pháp công não: Giảng viên cần trau dồi khả năng sử dụng linh hoạt các công cụ dạy học trực tuyến, làm chủ các công cụ, thiết bị công nghệ, không ngừng học tập nhằm tạo ra một giờ học hấp dẫn, hiệu quả. Bên cạnh đó, giảng viên phải có tốc độ đánh máy nhanh để ghi chép lại các ý tưởng chính xác, đầy đủ. Trong giờ học trực tuyến, SV dễ bị hấp dẫn bởi các hoạt động khác vì sự quan sát của giảng viên bị hạn chế hơn rất nhiều so với học tập trực tiếp. Chính vì vậy, chủ đề công não cần phải hấp dẫn, có thể phát triển thành nhiều ý tưởng khác nhau. Giảng viên có thể huy động các SV chưa có ý tưởng tham gia vào việc đánh giá các ý tưởng bằng cách lựa chọn ý tưởng khoa học nhất, phù hợp nhất với quan điểm của bản thân, thể hiện đặc trưng của chủ đề học tập. Giảng viên có thể kết hợp phương pháp động não – viết bằng cách yêu cầu SV trình bày ý tưởng dưới dạng bản đồ trí tuệ.

Đối với phương pháp “Sơ đồ tư duy”: Giảng viên cần hướng dẫn SV cách đọc slide bài giảng để tìm chủ đề, tìm nội dung chính và đưa nội dung chính và sơ đồ tư duy. Sơ đồ tư duy là phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả. Sơ đồ tư duy không chỉ cho thấy thông tin mà còn phản ánh cấu trúc tổng thể của một chủ đề và mức độ quan trọng của các thành phần riêng lẻ. Ngoài vẽ sơ đồ tư duy trên giấy, SV có thể sử dụng các phần mềm MindManager, FreeMind, ConceptDraw Minmap, Visual Mind, … và lựa chọn một phần mềm phù hợp nhất với bản thân để thiết kế các sơ đồ tư duy theo phom mẫu chuẩn.

Sơ đồ tư duy mang tính cá nhân hóa cao độ, chính vì vậy, cách SV tự thiết kế sơ đồ tư duy có thể dễ tiếp thu hơn cách giảng viên xây dựng, vì tư duy mỗi người khác biệt nhau. Đối với SV có khả năng tư duy bằng bán cầu não trái (não trái đóng vai trò xử lý dữ liệu logic như con số, phép tính ), có thể sử dụng sơ đồ tư duy có tính đơn giản, ngôn ngữ là phương tiện chủ đạo của mô hình sơ đồ tư duy này. Đối với SV có thế mạnh tư duy bằng bán cầu não phải (não phải làm nhiệm vụ xử lý dữ liệu trực quan như hình ảnh, màu sắc) thì SV có thể sử dụng mầu sắc, hình ảnh kết hợp ngôn ngữ để kích thích não bộ, giúp quá trình ghi nhớ và tái hiện thông tin dễ dàng hơn.

KẾT LUẬN
Học tập trực tuyến là xu hướng tất yếu không chỉ trong tình hình xã hội phức tạp do dịch bệnh hiện nay. Mô hình học trực tuyến ngày càng phát triển mạnh mẽ theo thời gian, song hành cùng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Để chương trình học trực tuyến đem lại hiệu quả, bản thân mỗi giảng viên chúng ta cần phải thay đổi quan niệm về PPDH. Giảng viên với vai trò là người hướng dẫn, định hướng, cố vấn học tập cho SV. Hoạt động giảng dạy không giảng đường mà thông qua các phần mềm hỗ trợ. Chính vì vậy, yêu cầu quan trọng nhất đối với giảng viên là khả năng tự học và sự chủ động, sáng tạo trong việc vận dụng các phương pháp giảng dạy trực tiếp vào dạy và học trực tuyến. Giảng viên phải thích nghi với mọi sự thay đổi của hoàn cảnh nhằm đạt được mục tiêu đào tạo, là tấm gương cho SV về tinh thần tự học suốt đời.
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Hiền (2017) Phương pháp dạy học đại học – Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên trường Đại học, cao đẳng, tr. 253-291
2.Trần Thị Tuyết Oanh (2006), Giáo trình giáo dục học - tập 1,  NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, tr. 184
3. Quốc hội (2019), Luật Giáo dục, NXB Chính trị Quốc gia sự thật
4. Đỗ Tùng, Hoàng Công Kiên (2020), Áp dụng mô hình lớp học đảo ngược trong dạy học trực tuyến tại trường Đại học Hùng Vương, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, tập 19, Số 2 , tr. 37-45
© Bản quyền 2017 thuộc về Trường Đại học công nghiệp dệt may Hà Nội.
Online: 210 Tổng truy cập: 31.791.072