Cách đây 3 năm, vào tháng 7 năm 2016, Tổ chức Lao động quốc tế – ILO đưa ra dự báo 85% lao động trong ngành dệt may của Việt Nam sẽ bị máy móc công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thay thế. Nhưng qua thực tế, nội dung gây chấn động của dự báo này chưa ảnh hưởng ngay.
Năng suất tăng, nhưng nhu cầu lao động chưa giảm
Theo nghiên cứu này của ILO sẽ có khoảng 1,7 triệu lao động dệt may nói riêng và khoảng 3 triệu lao động trong ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, da giày nói chung có nguy cơ bị mất việc và khi đó chúng ta phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội thực sự. Tuy nhiên thực tế nhận diện tác động của CMCN 4.0 sau 3 năm và các bước đi để tiếp cận công nghiệp 4.0 với ngành dệt may, khả năng 85% lao động dệt may bị ảnh hưởng là chưa có khả năng xảy ra trong thập kỷ tới.
Năm 2018, ngành dệt may Việt Nam đứng thứ 2 thế giới về quy mô xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu (KNXK) đạt trên 36 tỷ USD, chỉ sau Trung Quốc và ngang Ấn Độ và đứng thứ 4 về quy mô sản xuất dệt may toàn cầu nhờ tận dụng lợi thế lao động dồi dào, có kỹ năng và tay nghề cùng vị trí địa lý thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên trong thời gian tới ngành Dệt may Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức: lợi thế về lao động dồi dào và chi phí lao động thấp sẽ không còn. Đến giai đoạn 2030, Việt Nam sẽ qua thời kỳ dân số vàng. Chi phí tiền lương bình quân khoảng 2.739 USD/ lao động/năm, cao gấp đôi so với Pakistan, Bangladesh, Myanmar và còn tiếp tục tăng, năm 2020 lương tối thiểu tăng thêm 5,5% và Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng lương cao nhất trong 10 năm qua, chỉ sau Trung Quốc xét trong nhóm quốc gia nhiều lao động, hướng tới xuất khẩu.
Ngoài ra cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung cũng tạo ra áp lực nhất định, đặt trong bối cảnh ngành dệt may Việt Nam có quan hệ thương mại quy mô lớn với cả Trung Quốc và Mỹ.
Trước tình hình đó, việc tìm giải pháp giúp tăng năng suất lao động trong khi số lượng lao động không tăng thông qua việc tận dụng công nghệ trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra là hết sức cần thiết.
Cần nhận diện đúng khu vực công nghệ có thể thay thế con người
Từ thực tiễn các mô hình công nghệ đã triển khai tại các nhà máy ở Việt Nam và các công nghệ tương lai cho ngành dệt may được giới thiệu tại Triển lãm dệt may ITMA các năm 2015 và tháng 6/2019 vừa qua (ITMA là triển lãm kỹ thuật, công nghệ dệt may lớn nhất thế giới, được tổ chức 4 năm một lần, trưng bày triển lãm các công nghệ dệt may mới nhất, trong 5 năm tới mới đưa vào thương mại hóa), thấy được những thay đổi chính về công nghệ áp dụng trong ngành dệt may như sau:
(1) Nhóm sợi hiện nay công nghệ mới giảm 70% lao động, các nhà máy ứng dụng mô hình công nghệ mới đã có ở Việt Nam. Nếu trước đây để sản xuất 1 vạn cọc sợi cần 100 người thì bây giờ chỉ cần 25-30 người. Rào cản về mức vốn đầu tư chỉ cao hơn 35% nhưng về lâu dài doanh nghiệp sẽ thu hồi được vốn đầu tư thông qua giảm chi phí lao động (chi phí tiền lương) bù lại phần tăng khấu hao. Chính vì vậy đầu tư cho ngành sợi sẽ ưu tiên chọn công nghệ mới.
(2) Nhóm dệt nhuộm chỉ giảm khoảng 30% lao động nhưng giảm sử dụng nước, tiêu hao năng lượng lên tới 50% và đặc biệt là trong ngành nhuộm áp dụng liên kết dữ liệu toàn cầu giữa các nhà sản xuất với người sử dụng (người sản xuất ra quần áo). Dữ liệu liên kết này giúp người mua hàng biết đơn hàng của mình đang được làm ở đâu, kiểm soát được chất lượng và tiến độ trực tuyến của sợi và vải của mình đem nhuộm. Đối với ngành dệt, công nghệ mới giúp tăng năng suất 2,5 lần nhưng việc sử dụng dữ liệu liên kết trong chuỗi giữa người mua hàng và nhà cung cấp (kết quả sản xuất được kết nối icloud với tất cả những người mua hàng) cũng tạo ra thách thức cho những người đứng ngoài chuỗi.
Ngành nhuộm trước phụ thuộc vào tay nghề của kỹ sư thì nay với sử dụng dữ liệu lớn (big data) chuyển giữa các nước sang nhau, có thể sử dụng công thức nhuộm của Pháp, Đức ngay tại Việt Nam mà không phụ thuộc vào tay nghề kỹ sư, độ chính xác ngay từ đầu rất cao, đạt đến 95% màu cần nhuộm, giúp giảm giá thành.
Trong ngành dệt may, chỉ 5% lao động ngành dệt may nằm trong ngành sợi, dệt, nhuộm. Giả sử 50% lao động của nhóm này bị ảnh hưởng bởi CMCN 4.0 thì thực tế chỉ 2,5% lao động ngành dệt may (nằm trong ngành sợi, dệt, nhuộm) bị ảnh hưởng.
(3) Đối với ngành may (đang có 95% lao động toàn ngành ở nhóm này), hiện tại chưa có mô hình nhà máy nào hoàn toàn rô-bốt, rô-bốt chỉ làm được những mẫu mã không thay đổi còn nếu mẫu mã thay đổi phải lập trình lại. Trong khi xu thế hàng thời trang thế giới, mẫu mã thay đổi liên tục nên rô-bốt không thể đáp ứng. Trong 78 công đoạn sản xuất quần áo, rô-bốt hóa chỉ làm được 8 công đoạn – là các công đoạn khó, phức tạp trước đây phụ thuộc vào tay nghề người thợ như tra vai, tra cổ để giảm sự phụ thuộc vào tay nghề công nhân và tăng sự đồng đều về chất lượng của các sản phẩm. Các khâu liên quan đến thời trang trên sản phẩm đó thì rô-bốt không thay thế được.
Hiện nay rô-bốt không làm được: các sản phẩm vải thời trang mềm, trơn trượt; các sản phẩm 2-3 lớp như veston, jacket.
Kế tiếp là công nghệ in 3D được mô tả là thay thế thợ may nhưng đến thời điểm hiện tại in 3D chỉ thực hiện được trên chất liệu có nguồn gốc nhân tạo (nhựa), không in được trên các chất liệu có nguồn gốc tự nhiên như bông, len, đay. Trong khi bông và polyester được sử dụng đến 95% trong sản xuất hàng thời trang trên thế giới. Chính vì vậy, những dự báo rô-bốt có thể thay thế lao động có thể diễn ra trong ngành sợi, dệt nhưng ngành thời trang may mặc với 95% lao động chưa thể thay thế được.
Tại triển lãm ITMA 2019 vừa rồi cũng chưa xuất hiện mô hình nào có thể thương mại hóa trong 5 năm tới mà sử dụng hoàn toàn rô-bốt. Trong khoảng 10 năm tới, có thể khẳng định chưa có nhà máy may nào vận hành bằng rô-bốt 100%.
Việc tăng năng suất và tự động hóa các khâu khó trong sản xuất chỉ làm giảm nhu cầu về lao động giản đơn trong ngành may khoảng 15%, giảm ở khâu trải vải (trải bằng máy, cắt bằng lazer, định vị trên máy tính), đóng gói tự động. Tuy nhiên công nhân trên chuyền may chưa giảm.
CMCN 4.0 tạo nhu cầu việc làm mới trước đây chưa có
Phát sinh nghề mới: trước nay thời trang ta chỉ hiểu có 4 mùa xuân, hạ, thu, đông còn nay nâng lên 52 mùa, mỗi tuần là một bộ sưu tập. Dẫn đến nhu cầu về người làm thiết kế mỹ thuật, người làm hàng mẫu và chào mẫu tăng 15 lần so với trước đây. Trước đây một phòng kỹ thuật khoảng 6-7 người là đủ, giờ các trung tâm kỹ thuật của các doanh nghiệp may phải 100 người trở lên mới đáp ứng được nhu cầu về thời trang. Xuất hiện nhu cầu về công nhân kỹ thuật bảo trì ở trình độ điện tử, cơ điện tử cao và có khả năng liên kết dữ liệu giữa các doanh nghiệp ở trong nước với nhau, giữa các doanh nghiệp ở các nước với nhau (cán bộ làm merchandise).
Ở Việt Nam cũng đã áp dụng trí tuệ nhân tạo trong nhà máy sợi, nhuộm để phát hiện lỗi sai trên sản phẩm và gợi ý sửa lỗi.
Áp dụng công nghệ 4.0 không đồng nghĩa phải đào tạo lại hết toàn bộ lực lượng lao động, chỉ một bộ phận kỹ sư chiếm khoảng 20% cần phải đào tạo lên trình độ cao hơn, còn một bộ phận lao động thậm chí còn được máy móc hỗ trợ giúp công việc đơn giản hơn trước kia, chỉ cần tuân thủ kỷ luật lao động tốt sẽ có hiệu quả.
DN dệt may Việt Nam đang ở đâu trong CNCN 4.0?
Trong khuôn khổ của Đề tài độc lập cấp Nhà nước: “Nghiên cứu, đánh giá tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đối với ngành dệt may Việt Nam nhằm đề xuất định hướng chiến lược, chính sách và các giải pháp phát triển trong giai đoạn 2019 – 2030” được Bộ Khoa học và Công nghệ giao cho Tập đoàn Dệt may thực hiện, dự kiến sẽ hoàn thành vào tháng 11 năm 2019, Tập đoàn Dệt may Việt Nam đã tổ chức cuộc khảo sát đối với hơn 300 doanh nghiệp dệt may trên khắp cả nước. Các doanh nghiệp được khảo sát chia thành 4 nhóm ngành: doanh nghiệp sợi chiếm 28.5%; doanh nghiệp dệt chiếm 15.4%, doanh nghiệp nhuộm 18.7% và 37.4% là các doanh nghiệp may.
Nhóm khảo sát đã tham khảo phương pháp VDMA của Hiệp hội Kỹ thuật Cơ khí của Đức (Verband Deutscher Maschinen – und Anlagenbau – VDMA), có sự điều chỉnh cho phù hợp hơn với tình hình thực tế tại Việt Nam, tập trung phân tích dựa trên các yếu tố: (i) Hệ thống quản trị thông minh; (ii) Máy móc thiết bị thông minh; (iii) Quản lý chuỗi cung ứng dựa trên nền tảng dữ liệu; (iv) Người lao động; (v) Hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D).
Nếu xét trên thang điểm 5 về độ sẵn sàng và mức độ công nghệ phù hợp nhất với CMCN 4.0 thì các doanh nghiệp dệt may Việt Nam được khảo sát hiện chỉ ở mức điểm trung bình 2.59 trên thang điểm 5 của khảo sát, trong đó nhóm ngành sợi có mức độ hiện đại hoá cao nhất 3.02; ngành may 2.85; ngành dệt đang ở mức thấp nhất với 2.05 điểm.
Điểm nghẽn khó nhất của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là chi phí cho R&D rất thấp, gần như không có do tỷ suất lợi nhuận thấp, tích lũy quy mô còn nhỏ và phải xuất phát từ chính sách của Chính phủ ví dụ như Trung Quốc trong kế hoạch 5 năm lần thứ 13 (giai đoạn 2016-2020) tăng chi cho nghiên cứu R&D từ 0,6% lên 1% doanh thu ngành dệt may (khoảng 5-6 tỷ USD/năm).
Chính phủ cần hành động cụ thể
Trước hết trong Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp của Việt Nam đến năm 2030, Chính phủ cần xác định rõ ngành dệt may sẽ phát triển đến quy mô nào. Trong Chiến lược phát triển cho ngành công nghiệp dệt may cần phân tích kỹ chính sách của các quốc gia cạnh tranh để ta có chính sách phù hợp.
Ngoài việc cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm các điều kiện kinh doanh không phù hợp, Chính phủ cần có chính sách khuyến khích đổi mới công nghệ, hiện tại việc đầu tư công nghệ mới tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường đòi hỏi vốn lớn nên phải có hỗ trợ giúp nhà đầu tư có thể cạnh tranh được với các nhà sản xuất sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu, thậm chí đã hết khấu hao, bán phá giá.
Theo Tạp chí Dệt May và Thời trang Việt Nam – Đón đọc số tháng 8/2019 tại đây!